Có thể nói, năm 2023 là một năm kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức và diễn biến phức tạp, khó lường. Kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm, lạm phát tăng cao, thương mại toàn cầu sụt giảm, giá cả hàng hóa cơ bản biến động mạnh, xung đột địa chính trị, chính sách an ninh lương thực thắt chặt. Hầu hết các nước tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát (Fed tăng lãi suất 4 lần, hiện ở mức 5,25 - 5,5%/năm; ECB tăng 5 lần, hiện ở mức 4,25%/năm). Đồng USD quốc tế biến động mạnh, đồng tiền của nhiều nước mất giá mạnh.
Điều hành chính sách tiền tệ đã đạt được các mục tiêu
Năm 2023 là một năm đầy thách thức đối với kinh tế toàn cầu và Việt Nam không nằm ngoài bối cảnh chung đó. Xin Phó Thống đốc chia sẻ về những khó khăn thách thức của nền kinh tế nói chung, công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) nói riêng trong năm qua?
Có thể nói, năm 2023 là một năm kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức và diễn biến phức tạp, khó lường. Kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm, lạm phát tăng cao, thương mại toàn cầu sụt giảm, giá cả hàng hóa cơ bản biến động mạnh, xung đột địa chính trị, chính sách an ninh lương thực thắt chặt. Hầu hết các nước tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát (Fed tăng lãi suất 4 lần, hiện ở mức 5,25 - 5,5%/năm; ECB tăng 5 lần, hiện ở mức 4,25%/năm). Đồng USD quốc tế biến động mạnh, đồng tiền của nhiều nước mất giá mạnh.
Những tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới cùng với những khó khăn nội tại trong nước đã khiến các động lực tăng trưởng xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng của Việt Nam đều bị ảnh hưởng, tạo thách thức, áp lực rất lớn cho Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2023. Điều hành CSTT của NHNN cũng không ngoại lệ khi phải thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu, như kiểm soát lạm phát; ổn định tỷ giá, thị trường tiền tệ, giảm mặt bằng lãi suất để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng... trong khi thị trường chứng khoán, trái phiếu, bất động sản (BĐS) trong nước trầm lắng và gặp nhiều khó khăn nên vốn phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh cho nền kinh tế dựa chủ yếu vào kênh tín dụng ngân hàng.
Trong bối cảnh đó, thực hiện chủ trương của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo rất quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã chủ động, linh hoạt điều hành đồng bộ các công cụ CSTT nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra, trong đó đặc biệt quan tâm chỉ đạo mở rộng tín dụng bằng nhiều giải pháp để hỗ trợ giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tôi có thể tóm tắt một số giải pháp chính, như:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý trong hoạt động cấp tín dụng nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của các TCTD, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng, hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn trong hoạt động tín dụng. Trong đó, NHNN đã thường xuyên rà soát, hoàn thiện các quy định liên quan đến hoạt động cấp tín dụng; tiếp tục triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; làm việc với các TCTD về rà soát thủ tục, quy trình cho vay, chỉ đạo các TCTD tiếp tục đơn giản hóa các quy trình, thủ tục tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; rà soát, chỉ đạo các TCTD cắt giảm các loại phí, lệ phí không cần thiết cho khách hàng.
Thứ hai, điều hành lãi suất theo hướng giảm mạnh để hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. NHNN đã điều chỉnh giảm liên tục 4 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5-2,0%/năm trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao. Đồng thời chỉ đạo các TCTD và phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng vận động các TCTD triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp giảm mặt bằng lãi suất cho vay đối với cả khoản cho vay mới và dư nợ cũ. Nhờ đó, mặt bằng lãi suất đã giảm hơn 2,5%/năm so với cuối năm 2022, bằng mức lãi suất cho vay trước đại dịch Covid - 19, vượt kỳ vọng giảm 1-1,5% đặt ra từ đầu năm và sẽ còn tiếp tục giảm trong thời gian tới.
Thứ ba, mở rộng tín dụng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với định hướng tăng trưởng tín dụng khoảng 14-15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, trong năm NHNN đã thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD với tổng mức thông báo là 14,5%. Trước tình hình tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ở mức thấp hơn kỳ vọng và không đồng đều giữa các TCTD, NHNN đã linh hoạt điều hòa chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng từ TCTD không sử dụng hết chỉ tiêu được giao sang các TCTD có khả năng tăng trưởng tín dụng cao hơn số đã được giao và tiếp tục điều hành để tăng trưởng tín dụng năm 2023 không vượt quá chỉ tiêu định hướng đầu năm song vẫn đảm bảo dư địa, thanh khoản đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và an toàn hệ thống TCTD.
Thứ tư, kịp thời ban hành chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ (Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/04/2023) và chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt chính sách này nhằm hỗ trợ trực tiếp khách hàng gặp khó khăn, tạo điều kiện cho khách hàng được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, kéo dài thời gian trả nợ mà không bị chuyển nhóm nợ xấu, được tiếp cận các khoản vay mới phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là một chính sách rất kịp thời trong thời điểm khó khăn, được cộng đồng doanh nghiệp, người dân và dư luận đánh giá rất cao, thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, đúng đắn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN và sự hỗ trợ, chia sẻ, đồng hành của ngành Ngân hàng với doanh nghiệp, người dân.
Thứ năm, triển khai các chương trình tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn cho một số ngành, lĩnh vực như chương trình 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực BĐS); chương trình hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho một số mặt hàng nông sản chủ lực (lúa gạo ĐBSCL, thuỷ sản, cà phê); chương trình tín dụng cho công nhân theo thỏa thuận hợp tác giữa Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và 2 công ty tài chính (HD Saison và FECredit); chính sách hỗ trợ lãi suất từ NSNN đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP; các chương trình cho vay của NHCSXH thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ và Nghị quyết 43 của Quốc hội; đẩy mạnh các chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp trên toàn quốc...
Có thể nói, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức phức tạp và chưa có tiền tệ, nhưng với những giải pháp chủ động, linh hoạt, khéo léo, kết quả điều hành CSTT của NHNN đã cơ bản đạt được các mục tiêu đề ra và được các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và bạn bè quốc tế chia sẻ, ghi nhận và đánh giá tích cực.
Trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao và tăng trưởng kinh tế chậm lại, xin Phó Thống đốc cho biết NHNN đã làm gì để góp phần cùng cả hệ thống chính trị thực hiện hài hòa đồng thời cả hai mục tiêu kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ?
Để góp phần thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu trước áp lực lạm phát tăng cao trên thế giới, NHNN đã theo dõi rất sát diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát trong nước và thế giới để linh hoạt điều hành đồng bộ, hài hòa các công cụ CSTT vừa đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, an toàn hoạt động ngân hàng, vừa góp phần kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ.
Trên cơ sở đó, NHNN đã dự báo, tính toán các kịch bản điều hành phù hợp cho từng thời điểm và chủ động điều hành linh hoạt các công cụ CSTT, đặc biệt là công cụ lãi suất, tỷ giá vừa linh hoạt, khéo léo vừa thận trọng, hài hòa. Ngay trong những tháng đầu năm 2023, NHNN đã giảm dần từng bước các mức lãi suất điều hành để tác động làm giảm mặt bằng lãi suất cho vay của các TCTD, giúp tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tỷ giá, thị trường tiền tệ, ngoại hối được điều hành theo hướng ổn định, hài hòa và không làm ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất. Trong đó NHNN đã điều hành tỷ giá trung tâm phù hợp, can thiệp mua - bán ngoại tệ linh hoạt, phát hành tín phiếu hút bớt lượng tiền VND dư thừa trên thị trường liên ngân hàng... nhằm tìm điểm cân bằng tối ưu giữa tỷ giá và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, đồng thời hạn chế ảnh hưởng không thuận lợi đến lãi suất thị trường 1.
Cùng với việc giảm các mức lãi suất điều hành, ổn định tỷ giá, thị trường tiền tệ, ngoại hối, NHNN không chủ quan với lạm phát khi lạm phát cơ bản trong nước ở mức khá cao và lạm phát toàn cầu tiếp tục duy trì ở mức cao, các NHTW lớn vẫn tiếp tục thắt chặt CSTT, neo giữ lãi suất ở mức cao. Qua đó đã góp phần quan trọng vào kết quả kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế năm 2023.
Việc NHNN 4 lần cắt giảm lãi suất điều hành trong những tháng đầu năm 2023 được xem là quyết định táo bạo trong bối cảnh nhiều NHTW lớn trên thế giới bao gồm cả Fed vẫn tiếp tục tăng lãi suất. Xin Phó Thống đốc cho biết, cơ sở nào để NHNN đưa ra quyết định như vậy?
Đúng là những tháng đầu năm 2023, mặc dù kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng ở trong nước, thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định, thanh khoản của hệ thống TCTD dồi dào, lạm phát và lạm phát cơ bản chậm lại do tăng trưởng kinh tế thấp. Trên cơ sở phân tích, đánh giá, cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước, khả năng thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng... NHNN đã điều chỉnh giảm tích cực các mức lãi suất điều hành nhằm định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của TCTD đối với khách hàng, góp phần giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tôi cho rằng đây là giải pháp linh hoạt, phù hợp, cần thiết ngay tại những tháng đầu năm 2023. Với những kinh nghiệm vốn có trong điều hành CSTT của NHTW trong nhiều năm qua, vừa phải đảm bảo các nguyên tắc, quy luật vận hành các công cụ kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, mà điều hành lãi suất là vấn đề khó nhất, vừa phải vận dụng một cách hợp lý trong điều kiện thực tế của nền kinh tế Việt Nam. Có thể nói NHNN Việt Nam là một trong số ít NHTW trên thế giới giảm lãi suất điều hành để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong năm 2023.
Có thể nói, chưa năm nào tăng trưởng tín dụng lại được quan tâm đặc biệt như năm qua. Đâu là nguyên nhân khiến tín dụng gặp khó và liệu những “nút thắt” này sẽ được giải quyết ra sao trong năm tới? NHNN sẽ có những giải pháp gì để thúc đẩy tín dụng, tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế, thưa Phó Thống đốc?
Quả thực, tăng trưởng tín dụng trong năm 2023 gặp rất nhiều khó khăn, thách thức do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, do tác động của cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng giảm, dẫn tới cầu tín dụng của người dân, doanh nghiệp giảm tương ứng.
Hai là, khả năng hấp thụ tín dụng của thị trường BĐS suy giảm, trong khi dư nợ tín dụng BĐS chiếm trên 21% tổng dư nợ tín dụng chung toàn nền kinh tế.
Ba là, thị trường vốn (chứng khoán, trái phiếu…) khó khăn do một số tập đoàn, doanh nghiệp phát hành, sử dụng trái phiếu không đúng quy định, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư. Từ đó, nhu cầu vốn trung, dài hạn gây áp lực lên thị trường tiền tệ, vốn tín dụng ngân hàng, làm cho khả năng cân đối vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn tăng cao, nguy cơ rủi ro thanh khoản, rủi ro kỳ hạn gia tăng.
Bốn là, sau thời gian kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro của khách hàng bị đánh giá cao hơn, khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả (chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu cao, thị trường đầu ra, đơn hàng, doanh thu giảm...); TCTD rất khó khăn trong quyết định cho vay.
Năm là, một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm DNNVV. Việc tiếp cận tín dụng của nhóm này còn hạn chế do: (i) Quy mô vốn nhỏ, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính, quản trị điều hành hạn chế; (ii) Thiếu phương án kinh doanh khả thi, chưa có kế hoạch ứng phó với biến động thị trường, khả năng liên kết với chuỗi sản xuất còn hạn chế; (iii) Thông tin về tình hình tài chính của DNNVV còn thiếu minh bạch làm ảnh hưởng đến khả năng thẩm định của TCTD để đánh giá thực chất tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; (iv) Việc triển khai các giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng thông qua các cơ chế hỗ trợ của nhà nước (Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, Quỹ Phát triển DNNVV...) còn chưa phát huy hiệu quả.
Xác định doanh nghiệp và ngân hàng có mối quan hệ cộng sinh nên ngành Ngân hàng đã chủ động áp dụng đồng bộ rất nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp, người dân vay vốn. Với sự nỗ lực rất lớn của ngành Ngân hàng, đến ngày 31/12/2023, tín dụng toàn nền kinh tế đã đạt khoảng 13,56 triệu tỷ đồng, tăng 13,71% so với cuối năm 2022, gần đạt mức định hướng tăng trưởng tín dụng 14-15% NHNN đã đề ra từ đầu năm.
Để thúc đẩy tín dụng, tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế, ngay từ cuối năm 2023, NHNN đã đổi mới cơ chế điều hành mức tăng trưởng tín dụng. Theo đó, NHNN đã giao hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 15% của năm 2024 ngay ngày cuối cùng của năm 2023 cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để TCTD chủ động xây dựng kế hoạch, phương án tăng trưởng tín dụng của từng TCTD.
Đồng thời, NHNN tiếp tục nghiên cứu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng trong thời gian tới; Tiếp tục triển khai các chương trình, chính sách, giải pháp về tín dụng đã và đang thực hiện, tập trung cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; Đẩy mạnh công tác đối thoại, kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tăng cường thông tin, tuyên truyền, nắm bắt nhu cầu, kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc trong quan hệ tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp…
Đối với các TCTD, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, cắt giảm các loại phí không cần thiết hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh; Khẩn trương rà soát các dự án, các doanh nghiệp để đảm bảo cung ứng tín dụng kịp thời cho các dự án khả thi, hiệu quả, chia sẻ hỗ trợ doanh nghiệp, khách hàng vay vượt qua khó khăn để tiếp tục quay vòng vốn, trả nợ; Tham gia các hội nghị kết nối ngân hàng – doanh nghiệp và chủ động tổ chức hội nghị khách hàng để giải quyết các khó khăn; Tiếp tục đơn giản hóa các quy trình, thủ tục vay vốn, công khai phí, lãi suất… nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng…
Bên cạnh các giải pháp của ngành Ngân hàng, tôi cho rằng cũng cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành nhằm kích cầu đầu tư, tiêu dùng, thúc đẩy các động lực tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu; khai thác thị trường nội địa; cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính; ổn định, khơi thông dòng vốn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp; Xử lý các vấn đề tồn tại của thị trường BĐS, thúc đẩy thị trường BĐS phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, Quỹ Phát triển DNNVV; Xử lý các tổ chức, cá nhân lợi dụng, trá hình kinh doanh tiền tệ bất hợp pháp (qua mạng và đòi nợ thuê)…
Về phía các doanh nghiệp, rất cần thiết nâng cao năng lực, khả năng hấp thụ vốn thông qua các biện pháp tái cấu trúc hoạt động, nâng cao năng lực quản trị điều hành, xây dựng các phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, minh bạch tình hình tài chính… để TCTD có cơ sở thẩm định, quyết định cho vay và tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ các kênh huy động khác (như phát hành cổ phiếu, trái phiếu...).
Dự báo năm 2024, kinh tế thế giới và trong nước sẽ tiếp tục còn nhiều khó khăn, thách thức. Xin Phó Thống đốc cho biết, định hướng giải pháp điều hành CSTT trong năm 2024 để tiếp tục ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống và góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ?
Kinh tế thế giới năm 2024 dự báo vẫn tăng trưởng chậm với nhiều bất trắc, lạm phát dù đã có dấu hiệu qua đỉnh nhưng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao tại nhiều nước, nhiều NHTW vẫn duy trì chính sách lãi suất cao, giá hàng hóa thế giới tiềm ẩn nhiều nguy cơ biến động mạnh. Ở trong nước, tăng trưởng kinh tế cũng đứng trước những rủi ro ngày càng tăng khi cầu thế giới suy giảm tác động tiêu cực lên các ngành sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo, áp lực lạm phát vẫn còn, các hoạt động đầu tư, tiêu dùng cũng gặp nhiều khó khăn. Những diễn biến này sẽ tiếp tục tạo ra nhiều khó khăn, thách thức, áp lực đối với điều hành CSTT trong năm 2024.
Để tiếp tục ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống và góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ đề ra, toàn ngành Ngân hàng sẽ tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, bám sát diễn biến kinh tế, tiền tệ trong và ngoài nước, điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả các công cụ CSTT, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu khoảng 6-6,5%, gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát mục tiêu bình quân khoảng 4-4,5%.
Hai là, điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt, chủ động, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống TCTD; điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT; khuyến khích các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí, giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Ba là, điều hành tỷ giá phù hợp với điều kiện thị trường, can thiệp thị trường khi cần thiết, phối hợp đồng bộ các biện pháp và công cụ CSTT để bình ổn thị trường ngoại tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Bốn là, điều hành tín dụng hài hòa với diễn biến kinh tế vĩ mô nhằm góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD. Điều hành tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống các TCTD năm 2024 khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Chỉ đạo TCTD hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.
Năm là, tiếp tục triển khai Đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 nhằm nâng cao năng lực tài chính, quản trị của các TCTD, góp phần phát triển hệ thống các TCTD hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật và tiệm cận, đáp ứng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Trong đó, đẩy mạnh xử lý, thu hồi nợ xấu; tập trung thực hiện có hiệu quả phương án xử lý các TCTD yếu kém, triển khai cơ cấu lại các NHTM được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền...
Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin, ngân hàng số, thanh toán số. Tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và chuyển đổi số.
Trân trọng cảm ơn Phó Thống đốc Thường trực!
thanh huyền thực hiện