Skip to content
Một vài nhận định về xu hướng phát triển ngân hàng trong năm 2012
| Cỡ chữ: A-A+ | Tương phản |

Kinh tế thế giới bước vào năm 2012 với xu thế thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Trận động đất và sóng thần ở Nhật Bản cũng như những bất ổn chính trị ở Trung Đông và Bắc phi là nguyên nhân khiến quá trình thương mại và công nghiệp sản xuất toàn cầu bị chậm lại. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, các nước lớn buộc phải nỗ lực tăng cường các biện pháp phối hợp chính sách và xây dựng những thương lượng về lợi ích thông qua các cơ chế đa phương (như G20) và khu vực (như EU). Tương quan sức mạnh giữa các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu đang và sẽ tiếp tục thay đổi theo hướng nâng dần vị thế của Châu Á và các nền kinh tế mới nổi. Các quốc gia này được dự báo sẽ tiếp tục đóng vai trò là động lực tăng trưởng kinh tế thế giới, nhưng cũng phải đối mặt đồng thời với nhiều thách thức, đặc biệt là sức ép lạm phát và việc gia tăng hàng rào bảo hộ do các nước phát triển dựng lên.

Dự báo kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng ở mức 3.5% năm 2012 sau đó tăng nhẹ lên mức 3.6% ở giai đoạn 2013-2016 và giảm xuống 2.7% ở giai đoạn 2017-2025. Các nước phát triển được dự báo là sẽ tăng trưởng chậm lại ở mức 1.3% năm 2012, tăng lên mức 2% giai đoạn 2013-2016. Các nền kinh tế mới nổi sẽ tăng trưởng ở mức 5.6% ở năm 2012 và ở mức 3.3% giai đoạn 2017-2025.

Các xu hướng chính ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam

- Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế có thể được coi là xu hướng chủ đạo chi phối sự phát triển của ngành ngân hàng trong 10 năm tới, đem lại nhiều cơ hội cho sự phát triển của khu vực tài chính của Việt Nam. Quá trình hội nhập sâu rộng sẽ giúp ngành ngân hàng Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế một cách dễ dàng hơn thông qua việc phát hành trái phiếu, niêm yết cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán quốc tế để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài. Cạnh tranh về sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng gay gắt hơn sẽ kéo theo sự ra đời của những sản phẩm tài chính mới, đẩy mạnh phát triển các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới, hiện đại trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thống. Các TCTD Việt Nam có thể học hỏi được những kinh nghiệm quản lý, kiến thức và công nghệ tài chính hiện đại từ các định chế tài chính nước ngoài cùng với quá trình chuyển giao công nghệ gia tăng mạnh mẽ khi họ tham gia vào thị trường Việt Nam, qua đó nhanh chóng cải thiện được năng lực quản trị ngân hàng, năng lực canh tranh, trình độ ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến. Việc dỡ bỏ các hạn chế hiện tại cho phép các định chế tài chính và công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước và đóng góp lớn vào sự phát triển của các định chế tài chính và các dịch vụ tài chính trong nền kinh tế của Việt Nam. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gián tiếp tác động lên hệ thống ngân hàng thông qua sự mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng nền kinh tế.

Tuy nhiên việc mở cửa và hội nhập, bên cạnh những tác động tích cực cũng mang lại những rủi ro nhất định, sự biến động của thị trường trong nước tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng trong nước cũng phải nhanh chóng nâng cao chất lượng hoạt động và khả năng quản trị điều hành. Diễn biến của các dòng vốn, cùng với quá trình tự do hóa các giao dịch vốn theo các cam kết hội nhập quốc tế đã đặt ra thách thức lớn đối với việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá của NHNN Việt Nam, gây những bất ổn nhất định đến thị trường tài chính Việt Nam. Trong tương lai, vẫn tiềm ẩn nhiều biến động bất thường và nguy cơ đảo chiều của luồng vốn quốc tế do vậy, cần cấu trúc lại mô hình tăng trưởng để phát triển tốt hơn nhờ vào tiêu dùng nội địa chứ không phải phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu và nguồn vốn từ bên ngoài.

- Xu hướng phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế mới nổi và Châu Á Thái Bình Dương

Giai đoạn 2001-2010 đánh dấu sự nổi lên của những nền kinh tế lớn mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Brazil (còn được gọi tắt là khối BRIC) và khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Tốc độ tăng trưởng ngoạn mục của những nền kinh tế này trong những năm qua như Trung Quốc với tốc độ trung bình hàng năm là hơn 10%, Nga hơn 7% đã góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, các nền kinh tế mới nổi này dự báo sẽ chiếm hơn 50% tăng trưởng của thế giới trong 20 năm tới và sẽ làm đầu tàu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới, quy mô kinh tế châu Á sẽ vượt nhóm 7 nước công nghiệp lớn (G7) và trở thành khu vực kinh tế lớn nhất thế giới. Việc phát triển nhanh của các nền kinh tế này sẽ ảnh hưởng lớn đến thương mại toàn cầu và hệ thống ngân hàng thế giới. Việc giao dịch, trao đổi buôn bán sẽ không chỉ phụ thuộc vào một đồng tiền duy nhất như trước đây mà sẽ đa dạng hóa đồng tiền của các nước hơn.

- Xu hướng phát triển khoa học kỹ thuật và kinh tế trí thức

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là xu hướng hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức đã tạo ra những lực đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của khu vực tài chính trên phạm vi toàn cầu. Nhu cầu về các dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ ngân hàng gia tăng mạnh mẽ. Cùng với đó là sự cải tổ nhanh chóng về chất lượng của các dịch vụ dựa trên khoa học kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là sự phát triển của mạng lưới công nghệ thông tin, mạng internet trên toàn cầu đã cho ra đời các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Trong năm 2012, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tạo nên những bước phát triển đột phá cho dịch vụ ngân hàng sẽ là một xu hướng tất yếu.

Dự báo một vài xu hướng phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong năm 2012

  Xu hướng khai thác dịch vụ ngân hàng bán lẻ

  Đây là một xu thế tất yếu của ngành ngân hàng Việt Nam khi mà hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu tiện ích của người dân ngày càng đa dạng thì các NHTM đều đang cố gắng mở rộng thị phần, tiếp cận một lượng lớn người dân chưa biết đến các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Hơn nữa dịch vụ ngân hàng bán lẻ trên thực tế đem lại nguồn doanh thu cao, ít rủi ro cho các ngân hàng. Trên thực tế các NHTM ở Việt Nam cũng đã bước đầu tập trung khai thác thị trường bán lẻ thông qua việc mở rộng mạng lưới hoạt động nhằm cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến các cá nhân, hộ gia đình các doanh nghiệp nhỏ và vừa; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ ngân hàng, phát triển các loại dịch vụ mới, đa tiện ích như internet banking, home banking, PC banking, mobile banking….

  Việc tập trung mở rộng và phát triển lĩnh vực bán lẻ sẽ là nhân tố quyết định tác động đến vai trò dẫn đầu của các NHTM trong tương lai. Khả năng cung cấp nhiều sản phẩm hơn trong đó bao gồm nhiều sản phẩm mới thông qua sự đa dạng của các kênh phân phối sẽ giúp các NHTM sử dụng tối ưu những thuận lợi trong lĩnh vực dịch vụ tài chính trong tương lai. Do đó, trong năm 2012, các NHTM cần chú ý hơn nữa trong việc mở rộng ứng dụng công nghệ ngân hàng, phát triển kênh phân phối hiệu quả, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp để tiếp thị và giới thiệu sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để phát triển tốt dịch vụ ngân hàng bán lẻ của mình.

Xu hướng tổ chức lại kênh phân phối, tăng năng suất lao động  

Quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp được coi như cuộc đời của một thực thể sống, doanh nghiệp gắn bó với thị trường như thực thể sống cần môi sinh để tồn tại vậy: dù tham gia trong thị trường nào, trong lĩnh vực nào, “cuộc đời” ấy của doanh nghiệp cũng đều có thể được mô tả chung theo mô hình trên. Doanh nghiệp phải tập trung các yếu tố đầu vào để thực hiện quá trình chế biến, gia tăng giá trị cho đối tượng sản xuất tạo ra hàng hoá và cung cấp cho thị trường. Là một phần gắn kết doanh nghiệp với thị trường, kênh phân phối là một cấu phần tất yếu phải có trong quá trình sống của doanh nghiệp, đó là phạm trù mô tả cách thức doanh nghiệp tiếp cận tới thị trường và cung cấp sản phẩm, dịch vụ tới khách hàng.

Đối với các ngân hàng thương mại, việc phát triển kênh phân phối cũng đang là một trong những giải pháp mang tính tiên quyết cho phát triển. Tại Việt Nam, gần 50 năm phát triển vừa qua, hầu hết các ngân hàng mới chỉ có duy nhất kênh phân phối truyền thống - hệ thống chi nhánh, việc tổ chức lại các kênh phân phối một cách đa dạng đóng vai trò là một trong những yếu tố làm lên thành công trong cuộc đua cạnh tranh ngày càng gay gắt về cung cấp các sản phẩm và dịch vụ.

Hiện nay, hệ thống các chi nhánh của ngân hàng đang là kênh phân phối truyền thống cung cấp tới khách hàng các dịch vụ khách hàng cá nhân riêng lẻ. Bên cạnh đó, cũng xuất hiện những kênh phân phối mới thông qua sự trợ giúp của công nghệ thông tin như ATM, Mobile Banking...với nhiều ưu điểm về thời gian và mức phí. Đa dạng hoá kênh phân phối là việc lựa chọn một hoặc một số kênh phân phối nhằm tạo ra một hệ thống kênh phân phối hỗn hợp, bổ khuyết lẫn nhau trong hoạt động, nhằm tăng cường khả năng phục vụ khách hàng, tăng cường khả năng quan tâm tới từng khách hàng (cá nhân hoá dịch vụ), giảm mức phí và giảm bớt công việc cho nhân viên tại hệ thống chi nhánh. Hơn nữa, việc thiết lập và gắn kết các kênh phân phối mới sẽ tạo ra khả năng cho các chi nhánh bán lẻ đem lại, từ đó tăng năng suất lao động. 

Sản phẩm dịch vụ ngân hàng có một trong những đặc tính là nhanh tàn lụi, không thể lưu trữ, nên việc xây dựng các kênh phân phối (mạng lưới bán hàng) trở thành một vấn đề hết sức trọng yếu trong kinh doanh ở các ngân hàng. Xu hướng của các ngân hàng hiện này vẫn là tiếp tục củng cố các kênh phân phối truyền thống, bao gồm: (1) Hệ thống các Chi nhánh; (2) NH Đại lý (Thường được áp dụng đối với các NHTM chưa có chi nhánh) và phát triển kênh phân phối hiện đại với ưu thế về nhiều mặt, bao gồm: 

- Các chi nhánh tự động hoá hoàn toàn. Đặc điểm của kênh phân phối này là hoàn toàn do máy móc thực hiện, dưới sự điều khiển của các thiết bị điện tử. Nó có những ưu thế to lớn về chi phí giao dịch và tốc độ thực hiện nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng; 

- Chi nhánh ít nhân viên: Chi nhánh ít nhân viên có vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng, nhất là các chi nhánh lưu động. Ưu điểm của chúng là chi phí thấp, hoạt động linh hoạt; 

- Ngân hàng điện tử (E Banking): Phương thức phân phối này thông qua đường điện thoại hoặc máy vi tính. Nó cung cấp cho khách hàng rất nhiều tiện ích, tiết kiệm chi phí và thời gian, hoạt động được ở mọi lúc, mọi nơi; 

- Ngân hàng qua mạng: Được chia làm 2 loại: (i) Ngân hàng qua mạng nội bộ (mạng LAN). Hệ thống này hoạt động dựa trên cơ sở khách hàng có tài khoản tại ngân hàng, có máy tính cá nhân nối mạng với ngân hàng và đăng ký thuê bao với ngân hàng để được cấp mã số truy nhập và mật khẩu. Khách hàng có thể dùng máy tính của mình truy nhập vào máy chủ của ngân hàng để thực hiện các giao dịch, tìm kiếm thông tin; (ii) Ngân hàng qua mạng  internet. Đây là loại hình ngân hàng ở cấp cao hơn. Khách hàng chỉ cần có máy tính cá nhân nối mạng internet là có thể giao dịch được với ngân hàng mà không cần phải đến ngân hàng. Ngoài chức năng kiểm tra tài khoản, khách hàng có thể sử dụng hàng loạt dịch vụ trực tuyến khác như vay, mua hợp đồng bảo hiểm, đầu tư chứng khoán, chuyển ngân, mở L/C, mở thư bảo lãnh…

Xu hướng tập trung hóa quản lý rủi ro và cơ cấu danh mục

Sau khủng hoảng, những vấn đề được nhiều nhà quản trị, các nhà lập pháp quan tâm nhất là vấn đề về quản lý rủi ro, hiệu quả hoạt động và nâng cao hiểu biết về hoạt động ngân hàng. Điều này cũng xuất phát từ bối cảnh thực tế là một trong những nguyên nhân gây ra đổ vỡ ngân hàng là khâu quản lý rủi ro. Do đó trong thời gian tới, xu hướng tập trung hóa quản trị rủi ro và cơ cấu lại danh mục đầu tư sẽ được các ngân hàng đặc biệt quan tâm.

Nguồn tài lực dành cho việc hạn chế rủi ro hoạt động cũng là một phần cốt lõi của những yêu cầu cấp thiết được đặt ra đối với những ngân hàng đang tìm cách giảm thiểu những vấn đề về gian lận nội bộ, gian lận từ internet và dò rỉ thông tin. Nguồn tài lực giành cho quản lý danh mục đầu tư và kế hoạch phục hồi cũng được đặt ra nhằm giải quyết những khoản nợ xấu được cho là đang gia tăng do tác động từ khủng hoảng. Theo đó, ở Việt Nam, việc cơ cấu lại danh mục đầu tư, giảm tỷ trọng cho vay vào các lĩnh vực nóng như bất động sản và chứng khoán, tăng tỷ trọng cho vay tiêu dùng và cho vay đầu tư kinh doanh phục vụ sản xuất sẽ được các ngân hàng đặc biệt quan tâm. Khối NHTM cũng đã bước đầu xây dựng khung hệ thống quản lý rủi ro bao gồm cơ cấu tổ chức, các quy định nội bộ nhằm quản lý rủi ro ở mọi phạm vi từ khoản mục đến danh mục và các loại hình kinh doanh, các rủi ro tín dụng, thị trường và hoạt động…. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro cũng được hình thành khá rõ ràng, cụ thể có các Ủy ban quản lý rủi ro, Ủy ban kiểm toán, Ủy ban quản lý tài sản nợ có (ALCO), phòng quản lý rủi ro. Quá trính thu thập và tổng hợp thông tin, từ đó phân tích đưa ra những dấu hiệu rủi ro thị trường tiềm ẩn nhằm ngăn chặn thua lỗ cho ngân hàng cũng được quan tâm xây dựng. Hệ thống quản trị rủi ro cũng sẽ được xây dựng một cách tập trung, khối Quản trị rủi ro thường nằm ở hội sở chính của các ngân hàng, có trách nhiệm tính toán những rủi ro có thể phát sinh trong toàn bộ hệ thống, đảm bảo khả năng thanh khoản và mức độ an toàn vốn của ngân hàng này và báo cáo lại cho Ban điều hành và Hội đồng quản trị. Điều này giúp tiết kiệm chi phí, thời gian thay vì việc quản lý rủi ro phân tán, tại các chi nhánh như trước đây.

Xu hướng sáp nhập, mua lại sẽ diễn ra mạnh mẽ  

Trong thời gian vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính của thế giới đã ảnh hưởng, tác động xấu đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có cả các định chế tài chính, ngân hàng tưởng như không thể bị ảnh hưởng như UniCredit, AIG, Merrill Lynch, Citi Group, JP Morgan Chase... Và tất yếu theo quy luật thị trường, sẽ có hàng loạt các vụ mua bán, sáp nhập các công ty tài chính, ngân hàng, và điều này diễn ra mạnh nhất tại Mỹ - nơi đã có hàng trăm ngân hàng bị phá sản và hàng chục ngân hàng tự nguyện hoặc bị mua bán và sáp nhập trong 2 năm vừa qua.

Ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy hệ thống các TCTD có số lượng tương đối lớn nhưng trình độ phát triển không đồng đều, quy mô hoạt động nhỏ và chưa thật sự hiệu quả. Do đó, việc thực hiện cơ cấu lại hệ thống các TCTD, xử lý dứt điểm tình trạng các Ngân hàng thương mại yếu kém, khắc phục tình trạng thiếu thanh khoản, lành mạnh hóa và ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng, thiết lập trật tự kỷ cương thị trường tiền tệ được nêu trong Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 245/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 sẽ là một xu hướng tất yếu.

Việc mua lại, sáp nhập tổ chức tín dụng sẽ là một giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện năng lực tài chính của các TCTD nhỏ, kém hiệu quả từ đó tăng vốn để bảo đảm đủ mức vốn tự có theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Basel II, tăng khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài.

Thạc sỹ Đỗ Thị Bích Hồng

Viện Chiến lược Ngân hàng

10243 lượt xem
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT LỢI ÍCH KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN
Khái niệm về một số loại hình độc lập & mức độ ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng Trung ương các nước.
Giám sát hệ thống thanh toán quốc gia - Vai trò quan trọng của Ngân hàng Nhà nước trong những năm tới
Công nghệ thông tin trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng
Các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống đãi ngộ ở các ngân hàng thương mại
Phát triển hệ thống thanh toán quốc gia: Lĩnh vực đột phá trong hoạt động ngân hàng giai đoạn chiến lược mới
Một số suy nghĩ về những thách thức khi đổi mới hệ thống thanh tra ngân hàng
Mô hình ngân hàng đa năng
Lựa chọn mô hình giám sát tài chính phù hợp cho Việt Nam
"Củng cố và phát triển khu vực ngân hàng nội địa - Bài học kinh nghiệm trong chiến lược phát triển khu vực tài chính Malaysia"
© Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Địa chỉ : Số 49 Lý Thái Tổ - Hoàn Kiếm - Hà NộiThường trực Ban biên tập : (84 - 243) 266.9435Email : thuongtrucweb@sbv.gov.vnRSS
Chung nhan Tin Nhiem Mang Số điện thoại tổng đài Ngân hàng Nhà nước: (84 - 243) 936.6306