Skip to content
Quan hệ với APEC
| Cỡ chữ: A-A+ | Tương phản |

Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

I. Khái quát về APEC

1. Quá trình thành lập và các nước thành viên

Vào những năm 80 của thế kỷ trước, châu Á mà trọng tâm là Đông Á nổi lên thành một trong những khu vực năng động trên thế giới khi tốc độ tăng trưởng bình quân lên tới 9-10% mỗi năm, dù vậy khu vực lại thiếu một hình thức hợp tác hiệu quả để thúc đẩy phát triển kinh tế, hội nhập với nhiều quốc gia. Trước thực tế trên, tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế thương mại và ngoại giao tổ chức vào tháng 11/1989 tại thủ đô Can-bê-ra, Ốt-xtrây-li-a và theo đề xuất của nước chủ nhà, các Bộ trưởng của 12 nước khu vực châu Á và Thái Bình Dương gồm Ốt-xtrây-li-a, Hoa Kỳ, Ca-na-đa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Xing-ga-po, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan, và Niu Di-lân đã quyết định thông qua việc thành lập diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (Asia – Pacific Economic Cooperation - gọi tắt là APEC). Tháng 11/1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công, Đài Loan, tháng 11/1994 kết nạp thêm Chi-lê, Mê-xi-cô và Pa-pua Niu Ghi-nê.

Tháng 6/1996, Việt Nam đã chính thức nộp đơn xin gia nhập APEC và Hội nghị Thượng đỉnh thường niên APEC tại Van-cu-vơ – Ca-na-đa tháng 11/1997 đã quyết định kết nạp Việt Nam, Nga và Pê-ru là thành viên chính thức của APEC vào tháng 11/1998, nâng tổng số thành viên lên 21 nền kinh tế. Tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 10 tổ chức tại Kua-la Lăm-pơ, Ma-lai-xi-a, ngày 14/11/1998, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên APEC.

2. Mục tiêu hoạt động

APEC được thành lập nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng trong khu vực đồng thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng châu Á – Thái Bình Dương. Mục tiêu dài hạn của APEC được nêu rõ trong Tuyên bố Bô-gô 1994 của các nhà lãnh đạo: “thương mại và đầu tư tự do và thông thoáng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2010 đối với thành viên APEC phát triển và năm 2020 đối với các thành viên APEC đang phát triển”. Để thực hiện mục tiêu đó, các hoạt động của APEC dựa trên cơ sở 3 trụ cột: (i) Tự do hoá thương mại và đầu tư; (ii) Thuận lợi hoá kinh doanh; và (iii) Hợp tác kinh tế và kỹ thuật.

(i) Tự do hoá thương mại và đầu tư

Tự do hoá thương mại và đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động hợp tác kinh tế trong APEC và các nền kinh tế thành viên thông qua việc giảm và xóa bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi quan thuế cản trở hoạt động thương mại và đầu tư. Để thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình và mục tiêu vạch ra trong Tuyên bố Bô-gô, các nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành thực hiện các Kế hoạch hành động quốc gia (IAP) của mỗi nước, theo đó, các quốc gia sẽ đưa ra các cam kết một cách tự nguyện về tự do hoá về thuế quan, phi thuế quan, dịch vụ và đầu tư. Trong IAP, các nền kinh tế cần làm rõ chính sách thuế quan, phi thuế quan và đưa ra cam kết về lộ trình liên tục cắt giảm thuế quan hoặc loại bỏ các biện pháp và hàng rào phi quan thuế phù hợp với xu thế và nguyên tắc của WTO. Các nền kinh tế đồng thời đưa ra các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, nới lỏng các quy định và hạn chế tiếp cận thị trường dịch vụ, đồng thời xem xét tiến hành tự do hoá đầu tư.  

(ii) Thuận lợi hóa kinh doanh

Thuận lợi hóa kinh doanh tập trung vào việc giảm chi phí giao dịch trong kinh doanh, tăng cường trao đổi thông tin và tự do thương mại. Điều cốt yếu là thuận lợi hoá thương mại giúp các nhà xuất khẩu ở châu Á - Thái Bình Dương gặp gỡ và tiến hành kinh doanh hiệu quả hơn, do vậy làm giảm chi phí sản xuất và dẫn tới tăng cường trao đổi thương mại, hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn, tốt hơn và cơ hội việc làm nhiều hơn.

Để giúp tạo thuận lợi thương mại và đầu tư, các nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành thực hiện các Kế hoạch hành động tập thể (CAP) trên cơ sở 9 nguyên tắc hoạt động của APEC (được đề cập dưới đây). CAP được thực hiện trên 15 lĩnh vực được lựa chọn là: Thuế quan, Phi thuế quan, Dịch vụ, Đầu tư, Tiêu chuẩn và hợp chuẩn, Thủ tục hải quan, Quyền sở hữu trí tuệ, Chính sách cạnh tranh, Mua sắm Chính phủ, Nới lỏng cơ chế chính sách,  Quy tắc xuất xứ, Cơ chế giải quyết tranh chấp, Đi lại của doanh nhân, Thực hiện kết quả Vòng U-ru-guay, Cơ chế tập hợp và đánh giá thông tin.

(iii) Hợp tác kinh tế và kỹ thuật

APEC đưa ra Chương trình Hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH) nhằm hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực của các thành viên APEC hướng tới sự phát triển kinh tế bình đẳng, cân bằng và bền vững trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi nhất để triển khai các chương trình hành động thực hiện mục tiêu Bô-gô. Chương trình ECOTECH được thực hiện chủ yếu dưới dạng các dự án, chương trình hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ, trợ giúp kỹ thuật đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam trên khía cạnh xây dựng và thực hiện chính sách.

3. Nguyên tắc hoạt động

Hoạt động của APEC được điều tiết bởi những nguyên tắc cơ bản sau:

(1) Toàn diện: Thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá toàn diện ở các lĩnh vực nhằm tháo gỡ những cản trở trong quá trình thực hiện mục tiêu lâu dài về tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư;

(2) Phù hợp với GATT/ WTO: Các biện pháp và chương trình hành động áp dụng thực hiện mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư phải phù hợp với quy tắc, luật lệ và thoả thuận trong khuôn khổ của GATT/WTO;

(3) Đảm bảo mối tương đồng giữa các thành viên trong việc thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư. Các nền kinh tế thành viên tuy có sự khác biệt về trình độ phát triển nhưng đều phải tiến hành một cách thích đáng các biện pháp tự do hoá và thuận lợi hóa đối với thương mại và đầu tư;

(4) Không phân biệt đối xử: Các thành viên APEC sẽ áp dụng hoặc cố gắng áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành viên. Kết quả thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư không phải chỉ áp dụng cho các thành viên mà cả với các nước không phải là thành viên;

(5) Đảm bảo công khai: Minh bạch hóa mọi luật lệ chính sách hiện hành tại các thành viên APEC;

(6) Lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc: Các thành viên chỉ có thể giảm dần các biện pháp bảo hộ chứ không được tăng thêm;

(7) Cùng bắt đầu, quá trình liên tục với thời gian biểu khác nhau, trình độ và điều kiện phát triển kinh tế khác nhau. Khi thực hiện mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, các nền kinh tế thành viên có các thời gian biểu khác nhau với ưu tiên về thời gian đối với nền kinh tế đang phát triển là 10 năm so với nền kinh tế phát triển;

(8) Tính linh hoạt: Có sự linh hoạt trong việc thực hiện các vấn đề về tự do hoá thương mại và đầu tư vì trình độ phát triển kinh tế của các thành viên APEC khác nhau;

(9) Hợp tác kỹ thuật: APEC chủ trương hợp tác kinh tế, kỹ thuật để thúc đẩy thực hiện tự do hoá, thuận lợi hóa, thương mại và đầu tư.

4. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của APEC

APEC hoạt động như một diễn đàn hợp tác kinh tế và thương mại đa phương theo nguyên tắc đồng thuận, tự nguyện và không ràng buộc. Đây là diễn đàn duy nhất cam kết cắt giảm các rào cản thương mại và tăng cường đầu tư mà không đòi hỏi sự ràng buộc pháp lý về mặt thực thi đối với các thành viên. Thành công của diễn đàn đạt được thông qua việc tăng cường đối thoại chính sách và tôn trọng ý kiến của các thành viên. Các quyết định trong APEC đều dựa trên cơ sở cùng có lợi, đồng thuận, tự nguyện và phù hợp với các quy định của GATT/WTO với mục tiêu tăng cường hệ thống thương mại đa biên, ủng hộ tự do hoá thương mại và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư. Các nền kinh tế thành viên thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia (IAP) và Kế hoạch hành động tập thể (CAP) nhằm mở cửa thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Cơ chế hoạt động gồm Hội nghị Cấp cao thường niên, Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao - kinh tế thường niên, các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành và các Hội nghị Quan chức cấp cao (SOM). Ngân sách hoạt động của APEC do các thành viên đóng góp và đóng góp tự nguyện của một số thành viên phát triển.

Tuy hình thức là một diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực mở, nhưng APEC có một cơ chế tổ chức và hoạt động khá chặt chẽ. APEC có trụ sở Ban thư ký, có Giám đốc điều hành Ban thư ký, cùng các Uỷ ban, Tiểu ban và các Nhóm công tác chuyên môn được thành lập trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể.

(1) Hội nghị Các nhà lãnh đạo kinh tế APEC (APEC Economic Leaders Meeting)

Đây là cơ quan có quyết định cao nhất của APEC, nơi đặt ra các định hướng chiến lược và tầm nhìn dài hạn cho APEC. Hội nghị thường được tổ chức vào tháng 11 hàng năm, để phê duyệt các kế hoạch, kiến nghị do Hội nghị Bộ trưởng đệ trình và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm kế tiếp.

(2) Hội nghị Bộ trưởng (Ministerial Meeting)

Các Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức định kỳ hàng năm, trước Hội nghị Các nhà lãnh đạo kinh tế APEC, bao gồm Hội nghị Bộ trưởng thương mại, các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành như vận tải, jàng không, bưu chính viễn thông, ngoại giao - thương mại, tài chính... Chức năng chủ yếu của các Hội nghị Bộ trưởng là xem xét, thông qua nguyên tắc, mục tiêu, nội dung của các chương trình hành động; đánh giá tiến trình hợp tác APEC cũng như hoạt động của các Uỷ ban, các Nhóm công tác và các Nhóm đặc trách; xem xét và đánh giá việc thực hiện các sáng kiến của Hội nghị Cấp cao không chính thức; và xem xét thông qua ngân sách hoạt động hàng năm của APEC. Trên cơ sở đó báo cáo kết quả hoạt động và đệ trình các sáng kiến, kế hoạch mới lên Hội nghị Các nhà lãnh đạo APEC.

(3) Hội nghị Quan chức cấp cao (Senior Officials Meeting-SOM)

Hội nghị này thường được triệu tập thường kỳ 1 lần trong một năm, trước khi diễn ra Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao - thương mại. Nhiệm vụ chính của Hội nghị là để triển khai quyết định của Hội nghị Bộ trưởng, đệ trình các khuyến nghị, chương trình hợp tác lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét. Các quan chức cấp cao cũng đảm nhận việc xem xét, điều phối ngân sách và các chương trình hoạt động của các Uỷ ban, Tiểu ban và các Nhóm công tác.

(4) Ban thư ký (Secretariat)

Ban thư ký APEC làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội nghị Quan chức cấp cao và có quan hệ thông tin liên lạc trực tiếp, thường xuyên với các nền kinh tế thành viên, các Uỷ ban, các Nhóm công tác và Nhóm đặc trách của APEC. Nhiệm vụ chính của Ban thư ký hoàn toàn mang tính chất hành chính, phục vụ các Hội nghị của APEC, theo dõi việc triển khai các dự án.

(5) Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC (APEC Business Advisory Council-ABAC)

ABAC có nhiệm vụ là tăng cường sự hợp tác của APEC với khu vực doanh nghiệp và thúc đẩy sự tham gia của giới doanh nghiệp vào các hoạt động hợp tác của APEC. ABAC bắt đầu hoạt động sau Hội nghị Bộ trưởng ở Ô-sa-ka 1995 thay cho Diễn đàn Kinh doanh Thái Bình Dương (PBF) do Hội nghị Cấp cao không chính thức thành lập. ABAC tập trung vào các lĩnh vực như phát triển cơ sở hạ tầng, tài chính và đầu tư, doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), phát triển nguồn nhân lực, quan hệ giao dịch qua biên giới. Thành viên của ABAC là những nhân vật có uy tín trong giới doanh nghiệp của các nền kinh tế thành viên APEC, mỗi thành viên cử 1 đến 3 đại diện, trong đó thường có một đại diện cho SMEs.

(6) Các Uỷ ban và tiểu ban chuyên môn của APEC

Các Uỷ ban và Tiểu ban chuyên môn của APEC bao gồm:

- Uỷ ban Thương mại và đầu tư (Committee on Trade and Investment-CTI)

- Uỷ ban Kinh tế (Economic Committee-EC)

- Uỷ ban Quản lý và ngân sách (Budget and Management Committee-BMC):

- Uỷ ban điều hành SOM về Hợp tác kinh tế-kỹ thuật (SOM Steering Committee on ECOTECH - SCE)

- Tiểu ban về Thủ tục hải quan (Sub-committee on Customs procedures - SCCP)

- Tiểu ban về Tiêu chuẩn và hợp chuẩn (Sub-committee on Standards and Conformance - SCSC)

(7) Các Nhóm công tác trong APEC

Để triển khai thành công các chương trình hành động thực hiện các mục tiêu đề ra, ngoài các Uỷ ban và Tiểu ban, APEC còn có một hệ thống gồm khoảng trên 10 Nhóm công tác chuyên ngành và trên 4 Nhóm đặc trách trợ giúp hoạt động của APEC trên các lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, du lịch, giao thông vận tải, nghề cá, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, viễn thông, công nghệ và khoa học công nghiệp, bảo tồn tài nguyên biển, xúc tiến thương mại, doanh nghiệp vừa và nhỏ… Các Nhóm đặc trách bao gồm: Nhóm đặc trách của các chuyên gia về chống tham nhũng và minh bạch; Nhóm đặc trách về chống khủng bố; Nhóm đặc trách về y tế; Nhóm đặc trách về sẵn sàng trong trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra còn có một số các mạng lưới, tiến trình, tổ hợp, diễn đàn khác trong APEC bao gồm: Mạng lưới đầu mối liên hệ về giới; Mạng lưới đầu mối liên hệ về văn hoá; Tiến trình Bộ trưởng tài chính; Tổ hợp các Trung tâm nghiên cứu APEC; Diễn đàn về đổi mới khoa học đời sống; Hệ thống thực phẩm APEC

Chương trình hoạt động của APEC bao gồm

- EVSC: Kế hoạch tự nguyện tự do hoá sớm (15 lĩnh vực);

- IAPs: Kế hoạch hành động quốc gia (của riêng từng nước);

- CAPs: Kế hoạch hành động tập thể;

- ECOTECH: Thuận lợi hoá thương mại đầu tư và hợp tác kinh tế, kỹ thuật;

- OAA: Chương trình hành động Ô-sa-ka;

- AFS: Hệ thống lương thực APEC;

- EAP: Kế hoạch hành động ECOTECH;

- ABAC: Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC;

- APG: Nhóm đặc trách về Chống rửa tiền khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

5. Kết quả hợp tác

Sau 30 năm hình thành và phát triển, APEC đã đạt những kết quả đáng kể trong việc thực hiện Mục tiêu Bô-gô về tự do hoá thương mại và đầu tư. Những thỏa thuận của APEC đã góp phần giảm gần 3 lần mức thuế quan trung bình ở khu vực từ 16,9% năm 1989 xuống còn 5,8% năm 2010; chi phí giao dịch thương mại cũng giảm đáng kể, thông qua 2 lần cắt giảm 5% vào các năm 2006 và năm 2010. Từ năm 1989 đến năm 2010; thương mại giữa các thành viên nội khối tăng 7 lần, từ 1,7 nghìn tỷ USD lên 9,9 nghìn tỷ USD.

Từ 12 thành viên sáng lập, sau 4 lần mở rộng, đến nay APEC có 21 thành viên, trở thành cơ chế hợp tác kinh tế hàng đầu ở khu vực và trên thế giới, dẫn dắt tiến trình tự do hóa thương mại và đầu tư, thúc đẩy xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc vì hòa bình và phát triển. APEC hội tụ hầu hết các nền kinh tế năng động nhất khu vực, đại diện cho khoảng 40% dân số thế giới, chiếm khoảng 70% nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới, đóng góp 57% GDP và hơn 50% thương mại toàn cầu.

II. Việt Nam trong tiến trình hợp tác APEC

1. Tham gia của Việt Nam trong APEC

- Nhận thấy tầm quan trọng của APEC đối với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực nói chung và của Việt Nam nói riêng, phù hợp với đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, ngày 15/6/1996, Chính phủ Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập APEC.

- Ngày 14/11/1998, tại Hội nghị Bộ Trưởng ngoại giao - kinh tế tại Kua-la Lăm-pua – Ma-lai-xi-a, APEC đã tuyên bố kết nạp Việt Nam, Nga và Pê-ru. Việc trở thành thành viên chính thức của APEC là một bước đi sâu hơn vào con đường hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, góp phần mở rộng kinh tế đối ngoại, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện điện hoá đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong APEC, Việt Nam có nhiều đối tác quan trọng như các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Úc và Niu Di-lân. Một số thành viên APEC đang dần trở thành đối tác chiến lược trong kế hoạch phát triển quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư của Việt Nam. Thống kê gần đây cho thấy các nền kinh tế APEC chiếm khoảng 67% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khoảng 75% vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

- Quán triệt chủ trương “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”, ngay sau khi gia nhập APEC, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nhiều chương trình, dự án hợp tác của APEC, tranh thủ được sự hỗ trợ và giúp đỡ to lớn về vốn, khoa học kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Tuy là thành viên mới nhưng Việt Nam cũng đã tích cực và chủ động đề xuất nhiều sáng kiến tại các Hội nghị và Diễn đàn khác nhau của APEC. Kết quả tham gia APEC trong 20 năm qua là rất đáng khích lệ, Việt Nam đã tạo được uy tín và hình ảnh tốt đẹp với các thành viên về một đất nước năng động, cởi mở và hội nhập. Kể từ khi trở thành thành viên của Diễn đàn APEC vào năm 1998, Việt Nam đã có nhiều đóng góp thiết thực, đề xuất và triển khai hơn 80 sáng kiến, dự án trên nhiều lĩnh vực hợp tác của APEC.

2. Việt Nam và việc đăng cai APEC

Một sự kiện và đồng thời là đóng góp hết sức quan trọng của Việt Nam đối với tiến trình hợp tác APEC là việc Việt Nam chỉ sau 8 năm gia nhập đã chủ động đăng cai và tổ chức thành công năm APEC 2006. Điều này thể hiện tính chủ động và tinh thần trách nhiệm của Việt Nam trong việc thúc đẩy tiến trình hợp tác APEC.

Tiếp sau lần đầu tiên đăng cai tổ chức APEC vào năm 2006, trong năm 2017, Việt Nam đã đăng cai tổ chức Năm APEC 2017. Đây là một trọng tâm đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, thể hiện quyết tâm của Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và nâng tầm đối ngoại đa phương.

Chủ đề quốc gia của Năm APEC 2017 là: “Tạo thêm động lực mới, cùng vun đắp tương lai” với các trọng tâm ưu tiên theo thứ tự gồm: (i) đẩy mạnh liên kết kinh tế khu vực sâu rộng; (ii) cải cách cơ cấu và đổi mới sáng tạo; (iii) thúc đẩy tăng trưởng bền vững và bao trùm; và (iv) tăng cường an ninh lương thực và nông nghiệp bền vững.

Việc chủ động, tích cực đăng cai và tham gia các sáng kiến hợp tác, hoạt động của APEC trong 20 năm qua, bao gồm cả việc đăng cai 2 năm APEC vào 2006 và 2017, mang nhiều ý nghĩa quan trọng, bao gồm:

- Khẳng định đường lối đối ngoại tích cực hội nhập quốc tế, củng cố hòa bình, tăng cường hợp tác ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương;

- Tạo dấu ấn Việt Nam cả về nội dung và cách tổ chức; nâng cao hình ảnh sâu đậm về một nước Việt Nam năng động, cởi mở, mến khách và an ninh;

- Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác song phương với các nền kinh tế thành viên, đặc biệt là với các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản; góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới;

- Thông qua hợp tác APEC, mở rộng thị trường, thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư, du lịch, khoa học công nghệ; tranh thủ sự hỗ trợ của các thành viên APEC trên những vấn đề ta quan tâm (như gia nhập WTO, đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, ngăn chặn dịch cúm gia cầm, thu hẹp khoảng cách phát triển, kể cả về công nghệ thông tin);

- Thông qua APEC, đưa ra một thông điệp mạnh mẽ đối với cộng đồng doanh nghiệp về chính sách thông thoáng của ta về thương mại, đầu tư phù hợp với chuẩn mực quốc tế, góp phần đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp APEC, tăng thêm lòng tin và khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp APEC kinh doanh, đầu tư vào Việt Nam.

3. Hợp tác tài chính - ngân hàng trong APEC và vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

3.1. Quá trình tham gia

Ngay từ khi trở thành thành viên của APEC vào năm 1998, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia (IAP) trong lĩnh vực ngân hàng, trong đó nêu rõ tình hình thực hiện luật lệ và cơ chế điều tiết các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, xây dựng các chiến lược ngắn hạn và dài hạn để thực hiện IAP một cách hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và hỗ trợ thực hiện các mục tiêu đã được vạch ra của toàn khối.

Các cam kết trong IAP của Chính phủ Việt Nam nói chung và NHNN nói riêng được thiết kế phù hợp với các cam kết trong khuôn khổ hợp tác APEC và cam kết trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO. Hàng năm, chương trình này được rà soát việc thực hiện theo 3 nội dung chính: (i) cập nhật những thay đổi về tình hình và cơ chế quản lý hiện tại trong các lĩnh vực cam kết; (ii) tổng kết lại các cam kết trong kế hoạch ngắn hạn mà Việt Nam đã thực hiện được và những nội dung chưa thực hiện được hoặc chưa hoàn thiện như cam kết đặt ra ban đầu; và (iii) nghiên cứu đưa ra những bổ sung cần thiết để thực hiện các cam kết trước đây và đưa ra các kế hoạch triển khai trong thời gian tới nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại.

Với chủ trương của Chính phủ Việt Nam về tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác đầu tư với các thành viên APEC, trong thời gian qua, cùng với việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương về đầu tư, Việt Nam đã công bố và cập nhật thường xuyên IAP về tự do hóa đầu tư và thuận lợi hóa thương mại trong APEC. Việc thúc đẩy Kế hoạch này là một tín hiệu tích cực gửi đến cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài về quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc đẩy nhanh tiến trình cải cách kinh tế, mở cửa và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.

Cũng trong tiến trình hợp tác APEC, NHNN phối hợp với Bộ Tài chính tham gia Tiến trình Hội nghị Bộ trưởng tài chính APEC (FMP) vốn là diễn đàn hợp tác APEC về tài chính – ngân hàng được khởi nguồn vào năm 1994 tại Hô-nô-lu-lu, Hoa Kỳ và thực hiện dưới các cấp độ Bộ trưởng, Thứ trưởng và Quan chức cấp cao.

3.2. Phối hợp đăng cai diễn đàn hợp tác tài chính – ngân hàng APEC vào năm 2017

Trong khuôn khổ hợp tác tài chính APEC, NHNN căn cứ nhiệm vụ được phân công đã chủ trì tổ chức 3 sự kiện liên quan tới chủ đề Tài chính toàn diện – là 1 trong 4 chủ đề ưu tiên của Hợp tác tài chính APEC 2017, bao gồm: (i) Hội thảo Trao đổi thông tin tín dụng xuyên biên giới vào ngày 16/5/2017 bên lề Hội nghị Quan chức cấp cao tài chính (SFOM) tại Ninh Bình; (ii) Diễn đàn APEC về Tài chính toàn diện, tổ chức từ ngày 10-11/7/2017 tại Hội An, Quảng Nam; và (iii) Hội nghị Mạng lưới phát triển cơ sở hạ tầng tài chính vào ngày 12/7/2017 tại Hội An, Quảng Nam. Ngoài ra, NHNN còn phối hợp với Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tổ chức Hội thảo về Nâng cao nhận thức và giáo dục tài chính.

Tại Tuyên bố chung nhằm tổng kết các hoạt động hợp tác của năm 2017, các Bộ trưởng tài chính đã nhấn mạnh tới các kết quả hợp tác về tài chính toàn diện, bao gồm:

(i) Ghi nhận tầm quan trọng của tài chính toàn diện đối với sự phát triển bền vững, sáng tạo và toàn diện của dịch vụ tài chính trong khu vực.

(ii) Nhận thức tài chính nông nghiệp là một trong những nội dung quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển bền vững khu vực nông nghiệp - nông thôn, góp phần thu hẹp chệnh lệch thu nhập thông qua việc nâng cao năng lực cho người dân, hỗ trợ kinh doanh hộ gia đình, các doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa, các chuỗi giá trị, hoạt động sản xuất nông nghiệp dựa trên ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến. Việc áp dụng các sản phẩm tài chính mới và đa dạng vào lĩnh vực này sẽ giúp cho người dân và doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận thuận lợi hơn các sản phẩm và dịch vụ tài chính phù hợp với điều kiện kinh tế. Về phương diện này, các Bộ trưởng tài chính đánh giá cao vai trò điều phối và phối hợp của NHNN với các đối tác phát triển quốc tế, đặc biệt là Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC (ABAC), Cơ quan Điều phối hợp tác phát triển (FDC) và Liên minh Không dùng tiền mặt (BTCA) trong việc đưa ra các khuyến nghị nhằm cải thiện và thúc đẩy hơn nữa việc triển khai tài chính toàn diện, ứng dụng thanh toán số phục vụ mục tiêu an ninh lương thực và nông nghiệp bền vững tại các nền kinh tế thành viên. Các Bộ trưởng tài chính khuyến khích các nền kinh tế thành viên, trên nguyên tắc tự nguyện và không ràng buộc, cân nhắc những khuyến nghị này để có thể góp phần thực hiện thành công quá trình tái cơ cấu và phát triển một nền nông nghiệp có chất lượng, bền vững.

(iii) Các Bộ trưởng tài chính cũng ghi nhận tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng tài chính, đặc biệt là hệ thống thông tin tín dụng, giao dịch đảm bảo và hệ thống quy định về phá sản cũng như tài chính hỗ trợ thương mại và chuỗi cung ứng. Đối với nội dung này, NHNN đã phối hợp với WB, IFC, ABAC và các đối tác phát triển quốc tế đưa ra dự thảo Biên bản ghi nhớ song phương/đa phương nhằm thúc đẩy hợp tác về thông tin tín dụng nhằm hỗ trợ đầu tư và thương mại xuyên biên giới.

Với các kết quả được ghi nhận tại Tuyên bố chung của các Bộ trưởng tài chính, có thể nói, trong năm 2017, NHNN đã thực hiện tốt vai trò trung tâm của mình trong điều phối và hợp tác với các tổ chức tài chính và phát triển quốc tế trong thực hiện các hoạt động và đưa ra các khuyến nghị nhằm thúc đẩy hiệu quả tài chính toàn diện của Việt Nam cũng như các nền kinh tế thành viên của APEC.

 

 

 

 

 

 

35726 lượt xem
© Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Địa chỉ : Số 49 Lý Thái Tổ - Hoàn Kiếm - Hà NộiThường trực Ban biên tập : (84 - 243) 266.9435Email : thuongtrucweb@sbv.gov.vnRSS
Chung nhan Tin Nhiem Mang Số điện thoại tổng đài Ngân hàng Nhà nước: (84 - 243) 936.6306