Skip to content
Quan hệ với ASEAN
| Cỡ chữ: A-A+ | Tương phản |

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

I. Khái quát về ASEAN

1. Thành lập

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 tại Băng Cốc, Thái Lan, với việc ký kết Tuyên bố ASEAN (Tuyên bố Băng Cốc) của 5 nước sáng lập ASEAN, cụ thể là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xing-ga-po và Thái Lan. Sau đó, Bru-nây Đa-ru-sa-lam gia nhập ngày 07/01/1984, Việt Nam ngày 28/7/1995, Lào và Mi-an-ma ngày 23/7/1997, và Cam-pu-chia ngày 30/4/1999, nâng tổng số các quốc gia thành viên của ASEAN lên 10.

2. Mục tiêu và mục đích

Như quy định trong Tuyên bố ASEAN, mục tiêu và mục đích của ASEAN là:

1. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác để củng cố nền tảng cho một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình của các quốc gia Đông Nam Á;

2. Để thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực thông qua việc tuân thủ, tôn trọng công lý và nguyên tắc của pháp luật trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc;

3. Để thúc đẩy hợp tác tích cực và hỗ trợ lẫn nhau về những vấn đề quan tâm chung trong kinh tế, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, lĩnh vực khoa học và hành chính;

4. Cung cấp hỗ trợ cho nhau dưới các hình thức đào tạo và nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên nghiệp, kỹ thuật và hành chính;

5. Phối hợp hiệu quả hơn cho việc tận dụng các ngành nông nghiệp và công nghiệp, mở rộng thương mại của các nước, bao gồm việc nghiên cứu các vấn đề thương mại hàng hóa quốc tế, cải thiện giao thông vận tải, các phương tiện truyền thông và nâng cao mức sống của người dân các nước;

6. Để thúc đẩy nghiên cứu về Đông Nam Á;

7. Để duy trì sự hợp tác chặt chẽ và có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực với mục tiêu và mục đích tương tự, và khám phá tất cả các con đường hợp tác gần gũi hơn với nhau.

3. Nguyên tắc cơ bản

Trong quan hệ giữa các nước với nhau, các thành viên ASEAN đã thông qua các nguyên tắc cơ bản sau đây, như được ghi nhận trong Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) năm 1976:

1. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia;

2. Quyền của mỗi Nhà nước trong việc bảo vệ sự tồn tại quốc gia khỏi sự can thiệp từ bên ngoài, lật đổ hoặc cưỡng ép;

3. Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;

4. Giải quyết các bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa bình;

5. Sự từ bỏ các mối đe dọa hoặc sử dụng vũ lực;

6. Hợp tác hiệu quả với nhau.

4. Hiến chương ASEAN

Hiến chương ASEAN đóng vai trò là nền tảng vững chắc để tiến tới hình thành Cộng đồng ASEAN, trong đó quy định tình trạng pháp lý và khuôn khổ thể chế cho ASEAN. Văn bản này hệ thống hóa các tiêu chuẩn, quy tắc và giá trị ASEAN; đặt mục tiêu rõ ràng cho ASEAN; và quy định về trách nhiệm và sự tuân thủ.

Hiến chương ASEAN có hiệu lực từ ngày 15/12/2008. Từ đó, ASEAN hoạt động theo một khuôn khổ pháp lý mới và thiết lập một số cơ quan mới để thúc đẩy quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Trong thực tế, Hiến chương ASEAN đã trở thành một thỏa thuận ràng buộc pháp lý đối với 10 quốc gia thành viên ASEAN.

5. Cộng đồng ASEAN

Vào ngày 22/11/2015, trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 27 diễn ra tại Ma-lai-xi-a, lãnh đạo của 10 quốc gia thành viên ASEAN đã đặt bút ký văn kiện lịch sử Tuyên bố thành lập Cộng đồng ASEAN. Đây là một cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập ASEAN, phản ánh sự lớn mạnh của ASEAN sau 48 năm hình thành và phát triển vươn lên trở thành một cộng đồng liên kết chặt chẽ trên cả 3 trụ cột là: chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội, với vị thế ngày càng cao ở cả khu vực và thế giới. Các nhà lãnh đạo ASEAN cũng thông qua Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 mang tên “Vững vàng cùng tiến bước”, hướng tới một cộng đồng hòa bình, ổn định và cùng chia sẻ sự phồn vinh và trách nhiệm xã hội; hiện thực hóa một Cộng đồng ASEAN dựa trên luật lệ, hướng đến người dân và lấy người dân làm trung tâm.

Cộng đồng ASEAN bao gồm ba trụ cột là Cộng đồng An ninh - chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - xã hội ASEAN (ASCC). Mỗi trụ cột có một Kế hoạch tổng thể riêng.

Kế hoạch tổng thể AEC 2025 bao gồm năm (05) đặc trưng liên quan đến nhau và hỗ trợ cho nhau, đó là: (i) Một nền kinh tế hội nhập và cố kết cao; (ii) Một ASEAN cạnh tranh, sáng tạo, và năng động; (iii) Tăng cường khả năng kết nối và hợp tác ngành; (iv) Một ASEAN có khả năng phục hồi nhanh, toàn diện, hướng đến người dân và lấy người dân làm trung tâm; và (v) ASEAN toàn cầu.

Kế hoạch tổng thể AEC 2025 đưa ra những biện pháp chiến lược cho mỗi đặc trưng của AEC 2025. Nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể, các biện pháp chiến lược sẽ được xây dựng chi tiết và triển khai thông qua các kế hoạch công tác của các cơ quan chuyên ngành khác nhau trong ASEAN. Kế hoạch công tác ngành được xem xét và cập nhật định kỳ để đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả. Bên cạnh đó, các nước cũng sẽ tích cực tìm kiếm, khuyến khích tham gia các thỏa thuận đối tác với khu vực tư nhân, các hiệp hội ngành công nghiệp và cộng đồng lớn hơn ở cấp khu vực và quốc gia để đảm bảo một cách tiếp cận toàn diện và có sự tham gia của các lực lượng này vào quá trình hội nhập.

Hội nhập trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng luôn được xác định là một trong những nội dung quan trọng trong AEC. Để đạt được các mục tiêu dài hạn nêu trên, lĩnh vực tài chính - ngân hàng sẽ tập trung vào 3 nội dung hợp tác: hội nhập tài chính, tài chính toàn diện và ổn định tài chính. Đối với trụ cột hội nhập tài chính, AEC theo đuổi mục tiêu thiết lập thị trường tài chính có tính kết nối khu vực cao thông qua nâng cao vai trò của các ngân hàng khu vực, gia nhập sâu vào thị trường bảo hiểm với mức độ phân tán rủi ro cao hơn, và duy trì mức độ lưu động vốn cao. Trụ cột tài chính toàn diện tập trung giáo dục và phổ biến kiến thức tài chính, đồng thời thúc đẩy đa dạng hóa sản phẩn và dịch vụ tài chính. Trụ cột ổn định tài chính thực hiện chiến lược tăng cường giám sát và hợp tác hệ thống tài chính - ngân hàng và khuôn khổ giám sát qua biên giới.

II. Hợp tác khu vực trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ ASEAN

1. Hợp tác tài chính ASEAN

1.1. Cơ chế giám sát ASEAN

Cơ chế giám sát ASEAN (ASP) bắt đầu vào năm 1999 như một cơ chế để rà soát và trao đổi quan điểm giữa các quan chức cao cấp (NHTW và Bộ Tài chính) về các vấn đề chính sách và phát triển kinh tế trong ASEAN gần đây. Kể từ đó, nó trở thành một cơ chế quan trọng trong ASEAN về theo dõi và giám sát kinh tế khu vực.

Những thành tựu quan trọng cho đến nay bao gồm: thành lập một đơn vị chuyên trách tại Ban thư ký ASEAN (ASEC) để tiến hành giám sát khu vực và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác khu vực tài chính; thành lập đơn vị giám sát quốc gia ở một số nước (In-đô-nê-xi-a, Cam-pu-chia, Lào, Phi-líp-pin, Thái Lan và Việt Nam) để hỗ trợ xây dựng năng lực trong các công việc liên quan đến giám sát; chương trình đào tạo xây dựng năng lực cho các cán bộ Bộ Tài chính và NHTW ASEAN về giám sát kinh tế khu vực do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tổ chức; tiến hành các nghiên cứu kỹ thuật và bài viết chính sách về các vấn đề kinh tế và tài chính (ví dụ như tính bền vững tài chính, tái cơ cấu ngân hàng và doanh nghiệp và giám sát dòng vốn).

Tại Hội nghị Bộ trưởng tài chính ASEAN đặc biệt tại Tát-xken, U-dơ-bê-kít-xtan tháng 5/2010, các Bộ trưởng đã thông qua Điều khoản tham chiếu và ngân sách ban đầu cho việc thành lập Văn phòng giám sát kinh tế vĩ mô và tài chính, gọi tắt là MFSO. MFSO sẽ chịu trách nhiệm thực hiện các hoạt động giám sát trong ASEAN và giám sát các sáng kiến ​​hội nhập kinh tế khu vực như hội nhập tài chính. MFSO hiện được đặt tại ASEC và đã đi vào hoạt động đầy đủ từ tháng 5/2010.

1.2. Lộ trình hội nhập tài chính - tiền tệ ASEAN

Lộ trình hội nhập tài chính - tiền tệ ASEAN (RIA-Fin) được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng tài chính ASEAN năm 2003. RIA-Fin bao gồm các bước đi, mốc thời gian và các chỉ số hoạt động trong ba lĩnh vực: (i) Tự do hóa tài khoản vốn (CAL), (ii) Phát triển thị trường vốn (CMD) và (iii) Tự do hóa dịch vụ tài chính (FSL). Ngoài ra, Việt Nam và các nước đang triển khai các sáng kiến hợp tác tài chính khác như: Khuôn khổ hội nhập ngân hàng (ABIF), Hệ thống thanh toán (PSS), Tài chính toàn diện (FINC) và Ủy ban tăng cường năng lực hỗ trợ hội nhập tài chính ASEAN (SCCB).

Các Thống đốc NHTW và Bộ trưởng tài chính đã giao cho Ủy ban cấp cao về hội nhập tài chính - ngân hàng ASEAN (SLC) chỉ đạo các nhóm công tác trong khuôn khổ hợp tác tài chính – ngân hàng khu vực ASEAN xây dựng Kế hoạch hành động chiến lược (SAP) phù hợp với Tầm nhìn AEC 2025 để tổng hợp, xây dựng kế hoạch chiến lược tổng thể cho Tầm nhìn AEC 2025. SAP của mỗi nhóm công tác bao gồm các yếu tố sau: hành động chính sách, mục tiêu định lượng và mốc thời gian quan trọng.

Tự do hóa tài khoản vốn (CAL)

Mục đích của sáng kiến là nhằm tự do hóa hơn nữa các luồng vốn, phù hợp với tình hình kinh tế và mức độ sẵn sàng của mỗi nước, qua đó hỗ trợ phân bổ hiệu quả các khoản tiết kiệm trong ASEAN để tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế và phúc lợi, bằng cách loại bỏ dần các hạn chế trong các luồng vốn vãng lai, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp và các luồng vốn khác.

Mục tiêu của Nhóm công tác trong giai đoạn tới với Kế hoạch hành động chiến lược (SAP) là tự do hóa tài khoản vốn tùy thuộc vào khả năng đáp ứng và điều kiện thực tế của các nước thành viên và tăng cường đối thoại chính sách và cơ chế trao đổi thông tin về dữ liệu dòng vốn và các biện pháp đo lường dòng vốn giữa các nước thành viên.

Việc tham gia sáng kiến CAL được triển khai thực hiện trên mức độ sẵn sàng của từng quốc gia có xem xét tới mức độ phát triển cũng như độ mở cửa của nền kinh tế các quốc gia trên. Chủ yếu việc tham gia là thực hiện công tác đánh giá, tham gia các diễn đàn, trao đổi hợp tác và đối thoại chính sách. Các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ CAL phù hợp với chủ trương và lộ trình tự do hóa giao dịch vốn hiện hành.

Phát triển thị trường vốn (CMD)

Mục đích của sáng kiến là nhằm xây dựng năng lực và cơ sở hạ tầng để phát triển thị trường vốn ASEAN, để đạt được hội nhập thị trường vốn và tạo thuận lợi hơn cho thương mại và đầu tư. Những thành tựu chính cho đến nay bao gồm: nâng cấp Bảng chấm điểm mức độ phát triển thị trường trái phiếu ASEAN để theo dõi diễn biến và các chế độ quản lý thị trường trái phiếu; cung cấp các chỉ số thị trường trái phiếu theo các khoảng thời gian đều đặn, giá trái phiếu sau giao dịch và nhà đầu tư bán lẻ tiếp cận để mua trái phiếu chính phủ; và thông qua các tiêu chuẩn chứng khoán nợ của ASEAN.

Tự do hóa dịch vụ tài chính (FSL)

Mục đích của sáng kiến là nhằm tự do hóa hơn nữa các luồng dịch vụ tài chính (DVTC) trong khuôn khổ Hiệp định khung về thương mại dịch vụ ASEAN (AFAS). Các hoạt động của Nhóm công tác là hướng quá trình tự do hoá DVTC phù hợp với nguyên tắc và mục tiêu của Kế hoạch tổng thể AEC, hài hoà mục tiêu của Kế hoạch tổng thể AEC với Lộ trình hội nhập tài chính tiền tệ ASEAN và tạo cơ sở để đàm phán DVTC giữa ASEAN với các nước đối tác.

Đến nay, Nhóm công tác FSL đã hoàn tất đàm phán Gói cam kết thứ 9 về Tự do hóa DVTC trong AFAS. Mức độ cam kết mở cửa thị trường ngân hàng trong khuôn khổ FSL hiện nay không vượt quá các cam kết cắt ngang trong WTO. Trong việc kết nối ASEAN với nền kinh tế toàn cầu, Nhóm công tác FSL tiếp tục theo dõi diễn biến và tham gia đàm phán các nghĩa vụ dịch vụ tài chính trong các FTA ASEAN +.

Khuôn khổ hội nhập ngân hàng khu vực ASEAN (ABIF)

Mục đích của sáng kiến là tăng cường hội nhập và hợp tác trong hoạt động ngân hàng giữa các quốc gia trong khu vực ASEAN thông qua việc xây dựng Hướng dẫn thực hiện hội nhập ngân hàng khu vực ASEAN. Hướng dẫn ABIF xác định các nguyên tắc và định hướng nhằm tăng cường hiện diện thương mại của các nước ASEAN trên thị trường lẫn nhau. Các nước ASEAN sẽ xem xét công nhận ngân hàng của một quốc gia khác là Ngân hàng đạt chuẩn ASEAN (QAB) thông qua đàm phán giữa hai quốc gia, ký kết Thỏa thuận song phương về ABIF. Việc một quốc gia công nhận QAB của nước đối tác, cho phép tiếp cận thị trường và/hoặc dành các ưu đãi đặc biệt hơn hoàn toàn dựa trên cơ sở “sẵn sàng” và mức độ hài hòa hóa khuôn khổ pháp lý nội bộ của nước chủ nhà. Sau khi Hướng dẫn thực hiện ABIF được phê duyệt vào năm 2015, các nước sẽ tiến hành triển khai, đàm phán Thỏa thuận song phương và công nhận QAB. NHNN và NHTW Indonesia cùng Cơ quan Dịch vụ tài chính Indonesia (OJK) sẽ là Đồng Chủ trì Nhóm Công tác ABIF nhiệm kỳ 2022 – 2024. Dự kiến, NHNN sẽ xúc tiến thảo luận các nội dung để hướng tới hoàn thành các mục tiêu AEC 2025.

Tài chính toàn diện (FINC)

Tại Hội nghị Bộ trưởng tài chính và Thống đốc NHTW các nước ASEAN (AFMGM) năm 2015 tại Ma-lai-xi-a, các Bộ trưởng đã thống nhất về việc tài chính toàn diện sẽ là một trong 3 trụ cột trong Kế hoạch hội nhập tài chính ASEAN hậu 2015 (bên cạnh 2 trụ cột khác là hội nhập tài chính và ổn định tài chính). Các Bộ trưởng cũng nhất trí về sự cần thiết của việc thành lập Nhóm công tác ASEAN về Tài chính toàn diện (FINC).

Tôn chỉ hoạt động của Nhóm công tác FINC là xem xét, đề xuất các giải pháp chính sách, phối hợp/điều phối hoạt động giữa các đối tác quốc tế và các nước ASEAN nhằm nâng cao hiệu quả tiếp cận tài chính toàn diện thông qua các phương diện trung gian tài chính và các kênh phân phối, giáo dục nâng cao nhận thức tài chính và bảo vệ người tiêu dùng.

Nhóm công tác FINC đề ra các nhiệm vụ sau: (i) Xây dựng khung chính sách, chiến lược, hệ thống chỉ số/công cụ giám sát phục vụ cho các mục tiêu tài chính toàn diện; (ii) Tăng cường năng lực và chia sẻ kinh nghiệm và hiệu quả thực thi các chương trình tài chính toàn diện quốc gia; (iii) Hợp tác với các đối tác phát triển  để phát huy thế mạnh về tài chính toàn diện và điều phối cùng các nhóm công tác trong ASEAN về tài chính toàn diện.

Hệ thống thanh toán (PSS)

Mục đích của sáng kiến là nhằm thực hiện các nghiên cứu và đưa ra khuyến nghị chính sách để phát triển một hệ thống thanh toán khu vực nhằm đạt được mục tiêu về hội nhập về tài chính và thị trường vốn vào năm 2025 trong Kế hoạch tổng thể AEC.

Thời gian qua, Nhóm Công tác PSS đã tiến hành triển khai có hiệu quả các hoạt động chính như: Xây dựng Hướng dẫn thực hiện Khuôn khổ chính sách thanh toán ASEAN về Thanh toán bán lẻ theo thời gian thực xuyên biên giới; Xây dựng Hướng dẫn nguyên tắc về việc kết nối xuyên biên giới ASEAN về Hệ thống thanh toán bán lẻ; Tăng cường các thỏa thuận song phương về tăng cường khả năng tương tác thanh toán bán lẻ xuyên biên giới thông qua mã QR. Các hoạt động này nhằm hướng tới mục tiêu hình thành một hệ thống thanh toán khu vực hoạt động hiệu quả, an toàn để tăng cường các hoạt động kinh doanh và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân thực hiện thanh toán điện tử qua biên giới một cách thuận tiện hơn. NHNN và NHTW Thái Lan sẽ là Đồng Chủ trì Nhóm Công tác PSS nhiệm kỳ 2022 – 2024. Dự kiến, NHNN sẽ xúc tiến thảo luận các nội dung để hướng tới hoàn thành các mục tiêu AEC 2025.

Ủy ban tăng cường năng lực hỗ trợ hội nhập tài chính ASEAN (SCCB)

Uỷ ban tăng cường năng lực để hỗ trợ hội nhập tài chính ASEAN (SCCB) đã được thành lập tại Hội nghị SLC lần thứ 2 vào tháng 9/2011. Các thành viên Uỷ ban bao gồm đại diện của ADB, SEACEN, ASEC và các NHTW ASEAN. Uỷ ban là cơ quan đầu mối có nhiệm vụ: (i) khớp nối nhu cầu và nguồn cung cho sáng kiến tăng cường năng lực; (ii) giám sát và hướng dẫn thực hiện các sáng kiến tăng cường năng lực; (iii) báo cáo lên SLC và đệ trình các khuyến nghị về các sáng kiến tăng cường năng lực đã được khớp nối. Uỷ ban sẽ ưu tiên cho nhóm các nước Bru-nây, Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam (BCLMV) trong các sáng kiến tăng cường năng lực, phù hợp với những thoả thuận đạt được tại các cuộc họp SLC. Các hoạt động tăng cường năng lực bao gồm đào tạo, các đoàn học tập kinh nghiệm, trao đổi cán bộ, cung cấp chuyên gia tư vấn, nghiên cứu và phát triển.

Ủy ban cấp cao về Hội nhập tài chính ASEAN

Ủy ban cấp cao về Hội nhập tài chính ASEAN (SLC) được các Thống đốc NHTW ASEAN thông qua tại Hội nghị Thống đốc NHTW ASEAN tháng 4/2011. Thành viên Ủy ban gồm: Phó Thống đốc NHTW các nước ASENA; đồng chủ trì/chủ trì các nhóm công tác ASEAN; ASEC và ADB. Ủy ban được thành lập nhằm mục đích đưa ra định hướng chỉ đạo và hài hòa hóa tiến độ các nội dung hội nhập tài chính tiền tệ trong khu vực ASEAN. Nhiệm vụ chính của Ủy ban là vạch ra các mốc chủ chốt và lịch biểu, giám sát việc thực hiện, đưa ra ý tưởng và khuyến nghị chung về phương pháp và cách thức triển khai cũng như ưu tiên các hành động cần thiết.

Hội nghị Thống đốc NHTW ASEAN, Hội nghị Phó Thống đốc NHTW ASEAN và Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc NHTW ASEAN

Theo cơ chế luân phiên, hàng năm, NHTW các nước ASEAN sẽ tiến hành đăng cai tổ chức Hội nghị Thống đốc NHTW ASEAN (ACGM) và Hội nghị Phó Thống đốc NHTW ASEAN (ACDM). Đây là diễn đàn để các nhà lãnh đạo và các chuyên gia về tài chính - ngân hàng trong khu vực trình bày quan điểm và cùng nhau trao đổi về các vấn đề chung của khu vực cũng như khả năng tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác tài chính - ngân hàng trong khối ASEAN. Bên cạnh đó, Hội nghị cũng là dịp để các nhà lãnh đạo đánh giá tiến độ cũng như đưa ra các định hướng chỉ đạo đối với việc triển khai các sáng kiến hội nhập khu vực.

Kể từ năm 2012, các quốc gia ASEAN đã thống nhất việc tổ chức Hội nghị Bộ trưởng tài chính và Thống đốc NHTW ASEAN (AFMGM) với mục tiêu tạo dựng một diễn đàn trao đổi chính sách kinh tế vĩ mô và tài chính - ngân hàng giữa các Bộ trưởng tài chính và Thống đốc NHTW các nước khu vực ASEAN. Đây sẽ là hoạt động thường niên của các nhà hoạch định chính sách trong khu vực. Năm 2022, Cam-pu-chia với tư cách là Chủ tịch ASEAN đưa ra 04 nội dung ưu tiên hợp tác bao gồm: (i) Tăng cường khoa học, công nghệ và kết nối số; (ii) Thu hẹp khoảng cách phát triển vì sự cạnh tranh của khu vực ASEAN; (iii) Thúc đẩy khu vực ASEAN hội nhập, toàn diện, có khả năng phục hồi; và (iv) Phát triển một ASEAN vì mục tiêu tăng trưởng toàn cầu.

2. Hợp tác tài chính ASEAN+3

2.1. Đa phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai

Từ bài học kinh nghiệm khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á năm 1997, các Bộ trưởng tài chính ASEAN+3 đã thống nhất quan điểm rằng các nước trong khu vực cần có một quỹ dự trữ ngoại tệ lớn để hỗ trợ cán cân thanh toán và duy trì dự trữ ngoại hối của từng quốc gia để đối phó với các trường hợp xảy ra khủng hoảng. Ý tưởng về hỗ trợ tài chính đa phương trong ASEAN+3 đã được đề xuất và bắt đầu nghiên cứu từ năm 2006 và Thỏa thuận Đa phương hóa sáng kiến Chiềng Mai (CMIM) đã được Bộ trưởng tài chính và Thống đốc NHTW các nước ASEAN+3 ký kết và có hiệu lực vào ngày 24/3/2010.

CMIM là thể thức hỗ trợ tài chính ngắn hạn giữa các nước trong khu vực ASEAN+3 được thực hiện thông qua các giao dịch hoán đổi tiền tệ giữa các NHTW để các thành viên CMIM giải quyết khó khăn khẩn cấp trong cán cân thanh toán và thanh khoản nhằm thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ và kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, đặc biệt là sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu, các nước thành viên đã thống nhất ký kết một Thỏa thuận CMIM mới thay thế cho Thỏa thuận 2010, tăng gấp đôi quy mô quỹ CMIM lên 240 tỉ đô la Mỹ đồng thời bổ sung cơ chế ngăn ngừa khủng hoảng.

2.2. Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3

Việc thực hiện cơ chế giám sát kinh tế vĩ mô ASEAN+3 là một điều kiện bắt buộc đối với các nước ASEAN+3 khi tham gia Thỏa thuận CMIM. Cơ chế giám sát này được thực hiện định kỳ nhằm đảm bảo sự vận hành hiệu quả của CMIM. Để thể chế hoá cơ chế này, Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) được thành lập vào ngày 4/5/2011. Nhận thấy vai trò quan trọng của AMRO trong quá trình giám sát kinh tế vĩ mô khu vực, Hội nghị Bộ trưởng tài chính và Thống đốc NHTW ASEAN+3 (AFMGM+3) năm 2012 đã nhất trí nâng cao vị trí pháp lý của AMRO thành một tổ chức quốc tế. Vào ngày 10/10/2014, Hiệp ước thành lập AMRO đã được ký bên lề Hội nghị thường niên IMF/WB. Ngày 09/02/2016, Hiệp ước AMRO chính thức có hiệu lực. Nhằm tạo điều kiện cho AMRO thực hiện nhiệm vụ phân tích và giám sát kinh tế khu vực, hỗ trợ cho quá trình vận hành của CMIM, hàng năm, NHNN đã đón tiếp các đoàn công tác AMRO và cung cấp thông tin, số liệu xây dựng báo cáo giám sát khu vực.

2.3. Sáng kiến phát triển thị trường trái phiếu châu Á

Sáng kiến phát triển thị trường trái phiếu châu Á (ABMI) được khởi xướng vào năm 2003 với mục tiêu phát triển có hiệu quả và sâu rộng các thị trường trái phiếu trong khu vực; tăng cường hợp tác qua biên giới giữa các thị trường. Sáng kiến này tập trung vào những nỗ lực và hành động của các nước trên hai lĩnh vực là (i) thúc đẩy khả năng tiếp cận thị trường của các nhà phát hành trái phiếu; (ii) tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các thị trường trái phiếu khu vực. Theo sáng kiến, ASEAN+3 thiết lập các Nhóm công tác để triển khai nghiên cứu, thực hiện các sáng kiến khu vực về phát triển thị trường trái phiếu bao gồm 4 Nhóm đặc trách theo lĩnh vực, 1 Nhóm Hỗ trợ kỹ thuật, 1 Nhóm hỗ trợ và Nhóm điều phối chung; đồng thời thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng và đầu tư (CGIF) nhằm thúc đẩy hoạt động bảo lãnh trái phiếu trong nước của khu vực.

Nhằm thúc đẩy hơn nữa ABMI, Hội nghị Bộ trưởng tài chính ASEAN+3 lần thứ 11 tháng 5/2007 đã thông qua Lộ trình ABMI mới, theo đó thiết lập lại cơ cấu và mục tiêu hoạt động của sáng kiến này. Để triển khai nội dung trên, trong thời gian qua, các Nhóm đặc xây dựng chương trình công tác và tập trung vào các ưu tiên chính trong từng lĩnh vực. ASEC hỗ trợ ABMI với tư cách quản trị viên của các chương trình hỗ trợ kỹ thuật do Bộ Tài chính Nhật Bản thực hiện dưới sự hỗ trợ của Quỹ Hỗ trợ kỹ thuật Nhật Bản (JAFTA). Hỗ trợ kỹ thuật tập trung vào việc xây dựng năng lực của các nước ASEAN trong các khía cạnh khác nhau của phát triển thị trường trái phiếu như trái phiếu Chính phủ và hỗ trợ cơ sở hạ tầng.

Quỹ bảo lãnh và tín dụng đầu tư (CGIF) là nội dung quan trọng thuộc ABMI trong khuôn khổ hợp tác tài chính, ngân hàng ASEAN+3. CGIF được chính thức tuyên bố thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN+3 vào tháng 5/2010 tại U-dơ-bê-kít-xtan với quy mô là 700 triệu USD. CGIF được thành lập dưới hình thức một Quỹ tín thác do ADB quản lý, hoạt động độc lập với ADB và chỉ sử dụng nguồn vốn góp từ ADB và các nước ASEAN+3. CGIF sẽ bảo lãnh cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu huy động vốn trên thị trường vốn trong nước và dưới sự bảo lãnh của CGIM, trái phiếu doanh nghiệp sẽ được xếp hạng AAA (bằng mức xếp hạng của ADB).

Đến nay, CGIF đã tiến hành 56 giao dịch bảo lãnh phát hành trái phiếu cho các nước ASEAN+3. Trong đó, đối với Việt Nam, CGIF đã thực hiện 11 bảo lãnh phát hành trái phiếu cho Công ty Masan Consumer Holidings (10/12/2014, cập nhật ngày 17/2/2017), Tập đoàn Vingroup (2/3/2016), Công ty cổ phần đầu tư Thế giới di động (21/11/2017), Công ty cổ phần Tập đoàn PAN (10/9/2018), Tập đoàn Y khoa Hoàn Mỹ (5/10/2018), Công ty Năng lượng Hong Phong 1 (24/12/2019), Tập đoàn Gelex (31/12/2019) với tổng giá trị 690 triệu USD (tính đến tháng 04/2022).  

 

48841 lượt xem
© Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Địa chỉ : Số 49 Lý Thái Tổ - Hoàn Kiếm - Hà NộiThường trực Ban biên tập : (84 - 243) 266.9435Email : thuongtrucweb@sbv.gov.vnRSS
Chung nhan Tin Nhiem Mang Số điện thoại tổng đài Ngân hàng Nhà nước: (84 - 243) 936.6306