Luật NHNN Việt Nam số 46/2010/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và Luật Thanh tra số 56/2010/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 là những văn bản pháp lý quan trọng điều chỉnh hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Trong đó quy định: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của NHNN, là cơ quan thanh tra Bộ thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về ngân hàng. Theo Luật Thanh tra và Luật NHNN năm 2010, mục đích, nguyên tắc, đối tượng, nội dung thanh tra, giám sát ngân hàng, việc phối hợp giữa NHNN và cơ quan chức năng trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng bao gồm:
1.1. Phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy yếu tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
1.2. Góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của TCTD; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các TCTD; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
2.1. Phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra;
2.2. Kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng;
2.3. Thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của TCTD;
2.4. Thực hiện theo quy định của Luật NHNN và các quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng của Luật NHNN với quy định của luật khác thì thực hiện theo quy định của Luật NHNN;
2.5. Thực hiện đúng trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng theo quy định của Thống đốc NHNN.
3.1. TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Trong trường hợp cần thiết, NHNN yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra hoặc phối hợp thanh tra công ty con, công ty liên kết của TCTD;
3.2. Tổ chức có hoạt động ngoại hối, hoạt động kinh doanh vàng; tổ chức hoạt động thông tin tín dụng; tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là ngân hàng;
3.3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN;
3.4. Các doanh nghiệp Nhà nước do Thống đốc NHNN quyết định thành lập.
4. Nội dung thanh tra ngân hàng
4.1. Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, việc thực hiện các quy định trong giấy phép do NHNN cấp;
4.2. Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của đối tượng thanh tra ngân hàng;
4.3. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng;
4.4. Kiến nghị, yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp hạn chế, giảm thiểu và xử lý rủi ro để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và phòng ngừa, ngăn chặn hành động dẫn đến vi phạm pháp luật;
4.5. Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
Ngoài những quy định về thanh tra nêu trên, Luật NHNN năm 2010 còn quy định cụ thể, chi tiết về đối tượng và nội dung giám sát ngân hàng.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Luật NHNN Việt Nam năm 2010 cũng quy định việc phối hợp giữa NHNN với bộ, cơ quan ngang bộ trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng và việc trao đổi thông tin về hoạt động thanh tra, giám sát trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thuộc thẩm quyền quản lý. NHNN chủ trì, phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, giám sát TCTD; phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, giám sát công ty con, công ty liên kết của TCTD. Đồng thời quy định việc phối hợp thanh tra, giám sát ngân hàng giữa NHNN với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài. NHNN trao đổi thông tin và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài trong việc thanh tra, giám sát đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng của Việt Nam hoạt động ở nước ngoài. NHNN thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài về hình thức, nội dung, cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp thanh tra, giám sát phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, một lĩnh vực nhạy cảm dễ có những tác động tiêu cực đến an ninh xã hội, khi có sự mất an toàn gây đổ vỡ một ngân hàng nào đó, Luật NHNN năm 2010 đã quy định tăng thẩm quyền xử lý của NHNN với hành động xử lý đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng khi có những vi phạm pháp luật gây mất an toàn trong hoạt động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng thẩm quyền xử lý khi thực hiện thanh tra, giám sát các đối tượng quản lý của NHNN đối với thanh tra, giám sát ngân hàng.
Hiện nay, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng được thực hiện theo Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng và Nghị định số 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP. Hai nghị định này quy định cụ thể các hành vi vi phạm về: (i) giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hoạt động nghiệp vụ, về cơ cấu tổ chức của TCTD; (ii) quản trị, điều hành, kiểm toán; (iii) huy động vốn; (iv) cho vay, bảo lãnh ngân hàng, chiết khấu và cho thuê tài chính; (v) quản lý ngoại hối, quản lý kinh doanh vàng; (vi) thanh toán, mua, đầu tư vào tài sản cố định và kinh doanh bất động sản; (vii) bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD; (viii) kế toán, thống kê, thông tin, báo cáo, bí mật hoạt động ngân hàng; (ix) xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của TCTD; cản trở việc thanh tra, kiểm tra, không thực hiện yêu cầu của cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; cạnh tranh bất hợp pháp. Mức phạt tối đa đối với các hành vi vi phạm là 70 triệu đồng, căn cứ theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định số 95/2011/NĐ-CP, mức xử phạt tối đa đối với hành vi vi phạm là 500 triệu đồng.