Phát triển tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
TS. Võ Đức Toàn1
Phát triển tổ chức tài chính vi mô có thể được xem là một trong những giải pháp quan trọng thực hiện chiến lược xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Với quan điểm đó, tác giả bài viết xin trao đổi về thực trạng, vai trò của các tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam, nêu lên những vấn đề còn hạn chế trong hoạt động đề xuất một số khuyến nghị giải pháp nhằm phát triển các tổ chức tài chính vi mô trong thời gian tới.
1. Hoạt động của một số tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam
Tại Việt Nam có nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô. Trong phần này, tác giả chỉ trình bày hoạt động của một số tổ chức tài chính vi mô chủ yếu tại Việt Nam, thành lập theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010. (Xem bảng 1)
Bảng 1: Các tổ chức TCVM thành lập theo Luật các TCTD đến ngày 31/12/2016
Stt |
Tên tổ chức TCVM |
Địa chỉ |
Giấy phép |
Vốn điều lệ (Tỷ đồng) |
Số chi nhánh |
Số PGD |
1. |
Tổ chức tài chính vi mô TNHH M7. |
Tầng 2 Lô A9/D5 Khu đô thị mới Cầu Giấy, Phường Dịch Vọng hậu, Cầu Giấy, Hà Nội |
16a/GP-NHNN ngày 13/1/2012 |
15,5 |
3 |
11 |
2. |
Tổ chức tài chính vi mô TNHH MTV Tình thương. |
Số 20 Thụy Khuê, phường Thụy Khê, Tây Hồ, Hà Nội |
181/GP-NHNN ngày 17/8/2010 |
135,8 |
18 |
24 |
3. |
Tổ chức tài chính vi mô TNHH Thanh Hóa. |
Số 9 Hàng Nan, phường Lam Sơn, Thành phố Thanh Hóa, Thanh Hóa |
65/GP-NHNN ngày 22/8/2014 |
6,1 |
04 |
03 |
Nguồn: https://www.sbv.gov.vn/
- Quỹ hỗ trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm (CEP - Capital Aid Fund For Employment of The Poor):
Với sứ mệnh cải thiện cuộc sống cho các hộ gia đình nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người có thu nhập thấp; Với mục tiêu: (1) Cung cấp các dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo và nghèo nhất nhằm giúp họ bắt đầu và phát triển công việc làm ăn, sản xuất nhỏ; (2) Giảm nghèo thông qua các hoạt động tạo thu nhập của người nghèo giúp họ cải thiện an sinh gia đình; (3) Giảm tỉ lệ thất nghiệp đối với người nghèo; (4) Tham gia giúp người nghèo xây dựng cộng đồng, chia sẽ trách nhiệm, và ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường xã hội lành mạnh; (5) Mở rộng cung cấp các dịch vụ tài chính vi mô cho số lượng nghèo và duy trì sự bền vững tài chính của tổ chức.
Năm 2015, Quỹ CEP tiếp tục phát triển bền vững và đã mở rộng phạm vi phục vụ thêm 306.000 thành viên nghèo. Quỹ CEP đã tập trung mở rộng cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho công nhân, lao động nghèo và người có thu nhập thấp tại các khu công nghiệp, khu chế xuất của TP.HCM và vùng ngoại thành TP.HCM, các tỉnh lân cận. Quỹ CEP cũng đã thành lập hai chi nhánh mới tại tỉnh Bến Tre và Bình Dương, để tăng hiệu quả tiếp cận cộng đồng nghèo, mở rộng mạng lưới phục vụ lên 33 chi nhánh; trong đó, có 17 chi nhánh tại các quận, huyện của Tp.HCM, 16 chi nhánh tại các tỉnh Bến Tre, Bình Dương, Đồng Nai, Đồng Tháp, Long An, Tây Ninh, Tiền Giang và Vĩnh Long.
Sự tăng trưởng về phạm vi hoạt động của CEP được thực hiện song song với quản lý tài chính hiệu quả và bền vững. Đến cuối năm 2016, CEP có mạng lưới gồm 34 chi nhánh, 557 nhân viên, nguồn vốn đầu tư cho vay 2.762 tỷ đồng. Mặc dù trải qua nhiều thay đổi và phát triển của tổ chức, trong suốt thời gian 25 năm qua, CEP vẫn kiên định với sứ mệnh giảm nghèo trong công nhân và người lao động. Sơ lược về hoạt động của CEP năm 2016 như sau: CEP phục vụ 309.949 thành viên đang vay vốn, với mức vay bình quân là 15.969.000 đồng; 74% thành viên của CEP hoàn trả vốn vay hàng tuần và 26% hoàn trả hàng tháng. Về sử dụng vốn, 37% vốn vay được thành viên sử dụng cho hoạt động mua bán nhỏ; 17% được sử dụng cho mục đích cải thiện nhà ở, xây nhà vệ sinh, 16% cho mục đích chăn nuôi, nông nghiệp và ngư nghiệp, và 30% cho các mục đích khác như dịch vụ, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, mua sắm công cụ lao động, đóng học phí, khám chữa bệnh, trả nợ vay nặng lãi. CEP phục vụ 278.717 thành viên thực hiện tiết kiệm, với số dư tiết kiệm bình quân là 3.648.000 đồng; 74% thành viên vay vốn CEP là nữ; 62% thành viên vay vốn CEP sống ở vùng đô thị và 38% sống ở vùng nông thôn; 88% thành viên lần đầu tiên tham gia chương trình CEP được xác định là nghèo hoặc nghèo nhất.
- Tổ chức Tài chính vi mô TNHH một thành viên Tình Thương:
Tổ chức Tài chính vi mô TNHH một thành viên Tình Thương (Tinh Thuong One member Limited Liability Microfinance Institution - TYM), là Tổ chức Tài chính vi mô chính thức đầu tiên tại Việt Nam, do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập, với sứ mệnh cải thiện chất lượng cuộc sống của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp, đặc biệt ưu tiên phụ nữ nghèo, yếu thế, thông qua các dịch vụ tài chính và phi tài chính, tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế và xã hội, góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ. Được thành lập năm 1992, trải qua hơn 25 năm phát triển và trưởng thành, với thành tích giúp đỡ hàng nghìn chị em phụ nữ thoát nghèo bền vững, vươn lên làm giàu, xây dựng mô hình vay vốn dễ dàng và phù hợp với các hộ gia đình tại các địa bàn nông thôn, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của đất nước, TYM đã vinh dự nhận được những giải thưởng cao quý do Nhà nước trao tặng, như: Huân chương lao động hạng nhất, Giải thưởng phụ nữ Việt Nam, Tổ chức tài chính vi mô tiêu biểu,... Đối tượng tham gia vay vốn là các cá nhân, có độ tuổi từ 18 đến 65 tuổi (khi kết nạp vào TYM); thuộc các nhóm đối tượng sau: Hộ nghèo (theo tiêu chí quy định của Chính phủ); Cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp: mức thu nhập bình quân/người/tháng dưới mức thu nhập bình quân đầu người trung bình do Chính Phủ quy định; Doanh nghiệp siêu nhỏ; Đối tượng khác là các cá nhân và tổ chức có nhu cầu tham gia vào các hoạt động khác của TYM không bao gồm hoạt động vay vốn, tương trợ gia đình.
Mạng lưới hoạt động: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An.
Lĩnh vực hoạt động: Tín dụng, tiết kiệm, tương trợ gia đình, đào tạo - tư vấn và hỗ trợ cộng đồng (xem Bảng 2 và 3).
Bảng 2: Số liệu hoạt động từ năm 2014, 2015, 2016 và 6 tháng đầu năm 2017
Stt |
Chỉ tiêu |
2014 |
2015 |
2016 |
30/6/2017 |
1 |
Số huyện |
52 |
55 |
61 |
61 |
2 |
Số xã |
431 |
466 |
514 |
514 |
3 |
Số chi nhánh, phòng giao dịch |
57 |
59 |
62 |
65 |
4 |
Tổng cán bộ |
398 |
421 |
455 |
466 |
5 |
Số cán bộ kĩ thuật |
233 |
256 |
251 |
266 |
6 |
Tổng số khách hàng tham gia |
107.507 |
117.735 |
127.274 |
138.461 |
7 |
Số khách hàng vay vốn |
93.812 |
101.611 |
98.623 |
56.111 |
8 |
Số dư nợ vốn vay (tỷ đồng) |
758 |
862,87 |
1.054,66 |
1.056,09 |
9 |
Số dư tiết kiệm (tỷ đồng) |
402 |
561 |
686,15 |
756,36 |
10 |
Tỉ lệ nợ quá hạn (PAR-Portfolio at Risk) (%) |
0,0112 |
0,004 |
0,01 |
0,01 |
Nguồn: http://tymfund.org.vn/
Bảng 3: So sánh một số hoạt động từ năm 2014, 2015, 2016 và 6 tháng đầu năm 2017
Stt |
Chỉ tiêu |
2015/2014 |
2016/2016 |
6 tháng 2017/cuối 2016 |
|||
Giá trị |
Tỷ lệ |
Giá trị |
Tỷ lệ |
Giá trị |
Tỷ lệ |
||
1 |
Tổng số khách hàng tham gia |
10.228 |
9,51% |
9.539 |
8.10% |
11.187 |
8,79% |
2 |
Số khách hàng vay vốn |
7.799 |
8,31% |
-2.988 |
-2.94% |
-42.512 |
-43,11% |
3 |
Số dư nợ vốn vay (tỷ đồng) |
104,87 |
13,84% |
191,79 |
22.23% |
1,43 |
0,14% |
4 |
Số dư tiết kiệm (tỷ đồng) |
159 |
39,55% |
125,15 |
22.31% |
70,21 |
10,23% |
Nguồn: http://tymfund.org.vn/
- Mạng lưới Tổ chức tài chính vi mô M7.
Mạng lưới M7 là tổ chức tài chính vi mô lớn thứ 3 tại Việt Nam về quy mô tổ chức, xếp sau Quỹ CEP và Quỹ Tình thương của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (TYM).
Mạng lưới được thành lập ngày 5/7/2006 tại Him Lam, tỉnh Điện Biên, bao gồm 7 chương trình tiết kiệm - tín dụng, được quản lý bởi hội Phụ nữ địa phương. Các chương trình này đều có chung mô hình, cung cấp dịch vụ và đối tượng khách hàng giống nhau, đó là các nhóm người gặp thách thức về kinh tế - xã hội, chủ yếu là phụ nữ và người dân tộc thiểu số, sinh sống tại các khu vực nghèo và miền núi của huyện Mai Sơn (tỉnh Sơn La), Uông Bí và Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh), Can Lộc (tỉnh Hà Tĩnh), Ninh Phước (tỉnh Ninh Thuận), huyện Điện Biên và thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên).
Từ năm 1993 tới năm 2003, 7 chương trình của M7 hoạt động dưới sự tài trợ của ActionAid Việt Nam. Sau đó, ActionAid chuyển giao cho các chương trình này hoạt động độc lập, dưới sự quản lý của Hội phụ nữ địa phương. Từ thời điểm đó đến nay, các chương trình cũng lần lượt hoàn thiện cơ cấu tổ chức và chuyển đổi thành mô hình Quỹ xã hội, như là một bước trung gian để tiến tới trở thành các tổ chức tài chính vi mô hoạt động chuyên nghiệp.
Kể từ khi còn hoạt động dưới dạng các chương trình tiết kiệm - tín dụng, các thành viên thuộc mạng lưới M7 đã cung cấp các sản phẩm về tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm tới gần 35 nghìn khách hàng.
Từ tháng 12 năm 2012, tổng số thành viên của M7 tại 5 tỉnh khoảng 38.774, số thành viên tham gia M7MPA là hơn 23.000 người.
Tầm nhìn của mạng lưới: Là mạng lưới TCVM xã hội bền vững, làm việc chuyên nghiệp, thống nhất cao, nòng cốt cho TCVM VN nhằm cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho người nghèo, nhóm người dân tộc thiểu số và nhóm người thu nhập thấp trên các vùng miền.
Mục tiêu của mạng lưới: nhằm gắn kết 7 tổ chức với nhau, nâng cao năng lực cho các tổ chức tài chính vi mô, hỗ trợ các tổ chức này chuẩn bị chuyển đổi theo Nghị định số 28/2005/NĐ-CP, ngày 9/3/2005 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam và Nghị định số 165/2007/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điểm NĐ 28 nói trên. Các mục tiêu bao gồm:
(1) Tăng cường năng lực cho các tổ chức thành viên nhằm cung cấp các dịch vụ tốt hơn cho cộng đồng nghèo,người nghèo, đặc biệt là phụ nữ.
(2) Chia sẻ kinh nghiệm và trao đổi thông tin giữa các tổ chức thành viên và các tổ chức tài chính vi mô khác, cũng như với những cơ quan chức năng của Chính phủ trong các vấn đề liên quan.
(3) Hỗ trợ quá trình chuyển đổi thành các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép.
(4) Quảng bá hình ảnh của các tổ chức thành viên M7.
(xem Bảng 4)
Bảng 4: Thành viên hiện tại của M7
Stt |
Tên thành viên |
Tôn chỉ hoạt động |
1 |
Quỹ hỗ trợ phụ nữ miền núi phát triển Mai Sơn |
Thiết lập một hệ thống quản lý bền vững, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả những hỗ trợ của các nhà tài trợ cho cộng đồng, đặc biệt là các chương trình dành cho phự nữ; khuyến khích phụ nữ các dân tộc thiểu số tích cực tham gia các hoạt động tạo thu nhập, cải thiện cuộc sống thông qua việc thực hành tiết kiệm và vay vốn của Quỹ. |
2 |
Quỹ hỗ trợ phụ nữ Đông Triều |
M7 Đông Triều hoạt động vì lợi ích người nghèo nhằm khuyến khích và hỗ trợ họ tự tin, vượt khó, tích cực tham gia các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống, góp phần giảm tỷ lệ đói nghèo, trên cơ sở hạch toán độc lập, tự vững về tài chính và tổ chức. |
3 |
Quỹ khuyến khích phụ nữ phát triển thị xã Uông Bí |
Hoạt động không vì lợi nhuận mà vì sự phát triển của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo và phụ nữ có thu nhập thấp.Khuyến khích các tầng lớp phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo tích cực tham gia các hoạt động tạo ra của cải, giảm nghèo và làm giàu cho gia đình thông qua việc thực hành tiết kiệm và vay vốn của Quỹ. Khuyến khích phụ nữ giúp đỡ nhau trong việc quản lý nguồn vốn, học tập và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất và đời sống, tham gia các hoạt động phúc lợi xã hội, cải thiện sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Trợ giúp những trường hợp đặc biệt như người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam. |
4 |
Quỹ phụ nữ phát triển Thành phố Điện Biên Phủ |
Quỹ hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà vì sự bình đẳng, tiến bộ của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ. Quỹ hướng tới hỗ trợ phụ nữ thoát nghèo, đạt được cuộc sống tốt đẹp hơn để vươn lên làm giàu chính đáng và đống góp vào công cuộc xóa đói giảm nghèo tại địa phương. |
5 |
Quỹ ủy thác hội phụ nữ Huyện Điện Biên |
Quỹ hoạt động không vì mục đích thu lợi nhuận mà vì Bình đẳng và Phát triển của Phụ nữ các dân tộc miền núi hỗ trợ phụ nữ nghèo cải thiện chất lượng cuộc sống và vị thế thông qua việc tạo ra các cơ hội để họ thực hành và thể hiện mình. Quỹ tự trang trải bằng nguồn thu từ chính các hoạt động của mình và tăng trưởng nguồn để mở rộng hoạt động, phục vụ được nhiều hộ nghèo, phụ nữ nghèo thay đổi cuộc sống. |
6 |
Trung tâm phát triển vì người nghèo. |
Hoạt động hướng đến một xã hội không có nghèo đói và bất công. Trong đó tất cả mọi người, đặc biệt là nhóm người nghèo, yếu thế và dễ bị tổn thương được đảm bảo các quyền cơ bản. |
7 |
Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển Ninh Phước |
Nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo thông qua hệ thống hỗ trợ dịch vụ tiết kiệm, tín dụng, dịch vụ quản lý rủi ro, khoa học kỹ thuật, y tế xã hội, từ đó cải thiện địa vị của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. |
8 |
Dự án tăng cường năng lực và giảm nghèo bền vững (STU) |
Trang bị cho phụ nữ nghèo, nhóm dân tộc thiểu số huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên các kiến thức, kĩ năng về quản lí bản thân và quản lí SXKD, giúp họ tạo dựng tài sản, bảo vệ tài sản, đa dạng hóa sinh kế để tăng thu nhập, cải thiện đời sống và vị thế, góp phần xây dựng nông thôn mới, phát triển và bền vững. |
Nguồn: http://www.cfrc.vn/
- Tổ chức tài chính vi mô TNHH Thanh Hóa (Thanh Hóa MFI).
Tính đến ngày 30/6/2017, Thanh Hóa MFI đang hoạt động tại 178 xã, phường thuộc 17 huyện, thị: Nông Cống, Hoằng Hóa, Thiệu Hóa, Hậu Lộc, Đông Sơn, Quảng Xương, Bỉm Sơn, Triệu Sơn, Yên Định, Tĩnh Gia, Hà Trung, Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Như Thanh, Cẩm Thủy; Sầm Sơn và thành phố Thanh Hóa; tăng 10 xã/phường so với tháng 5/2017 và 28 xã/phường so với tháng 12/2016. Số thành viên tham gia tổ chức là 29.898, đạt 101% so với kế hoạch đề ra. Số khách hàng vay vốn là 20.379 (đạt 101%), số khách hàng vay vốn là phụ nữ là 18.847, chiếm 92,5% tổng số khách hàng vay vốn; khách hàng vay vốn là hộ nghèo: 14.474, chiếm 71%; đảm bảo giới hạn cho vay khách hàng tài chính vi mô theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Tổng dư nợ cho vay đến ngày 30/6/2017 là 239,657 tỷ đồng, đạt 106% so với kế hoạch chiến lược của tổ chức giai đoạn 2016 - 2020. Nợ quá hạn là 46.512.800 đồng, chiếm 0,019% tổng dư nợ.
Thanh Hóa MFI luôn duy trì được tỷ lệ cao đối tượng khách hàng hướng tới của tổ chức đó là hộ có thu nhập thấp (92,5%) và phụ nữ (71%) theo sứ mệnh hoạt động của mình. Đồng thời đảm bảo các chỉ số: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (15,2%), tỷ lệ khả năng chi trả (27%) theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước. Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, trong thời gian tới Thanh Hóa MFI sẽ đạt được nhiều kết quả khởi sắc hơn nữa, đóng góp vào công cuộc xóa đói giảm nghèo tại địa phương.
2. Một số hạn chế
- Các tổ chức tài chính vi mô chưa thực hiện việc công bố các thông tin, báo cáo tài chính một cách thường xuyên và cập nhật trên trang mạng riêng, hoặc có thực hiện nhưng chưa đồng bộ, liên tục.
- Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, nguồn vốn hoạt động còn hạn chế, chất lượng dịch vụ chưa cao: Các sản phẩm dịch vụ hầu như tập trung vào cho vay, mục đích sử dụng chủ yếu cho sản xuất kinh doanh, chưa thật sự quan tâm nhiều đến phát triển sản phẩm cho vay tiêu dùng. Hai tổ chức tài chính vi mô được cấp phép là TYM và M7 được phép huy động tiền gửi từ dân cư, nhưng phương thức và lãi suất huy động chưa thực sự linh hoạt, hấp dẫn. Các tổ chức tài chính vi mô huy động tiền gửi tiết kiệm bắt buộc là chủ yếu, nhưng khách hàng chưa thực sự ưa thích loại tiền gửi này. Quy mô tiết kiệm bắt buộc cũng tương đối nhỏ, phần tiền gửi tự nguyện ít do hình thức này chưa được hấp dẫn đối với khách hàng. Do vậy, nguồn vốn của các tổ chức tài chính vi mô phụ thuộc chủ yếu vào vốn chủ sở hữu hoặc vốn tài trợ. Một số tổ chức tài chính vi mô thực hiện bán bảo hiểm với tư cách là đại lý cho một số công ty bảo hiểm.
- Môi trường kinh tế, xã hội có những tác động chưa thuận lợi cho tổ chức và khách hàng tài chính vi mô. Trong thời gian qua tình hình kinh tế - xã hội có nhiều biến động, ảnh hưởng tới các thành phần kinh tế nói chung, với các tổ chức tài chính vi mô và khách hàng nói riêng. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ giải thể, tạm ngừng sản xuất tại Việt Nam cũng ở mức cao. Mặc dù các doanh nghiệp không phải là đối tượng khách hàng chính của tổ chức tài chính vi mô, nhưng khách hàng tài chính vi mô bị ảnh hưởng rất lớn do sản xuất kinh doanh nằm trong chuỗi giá trị liên quan tới doanh nghiệp này. Vì vậy, hoạt động này bị suy giảm về giá cả hoặc sản lượng; Bên cạnh đó, tình trạng dịch bệnh, thiên tai, ô nhiểm môi trường, sự phát triển dân số... cũng ảnh hưởng trực tiếp nhất tới khách hàng tài chính vi mô. Lý do là khách hàng tài chính vi mô chủ yếu có thu nhập từ khu vực nông nghiệp, nông thôn, nguồn thu nhập không đa dạng và thiếu ổn định. Mỗi khi có dịch bệnh hoặc thiên tai lớn, nhiều khách hàng tài chính vi mô mất cả nhà cửa, phương tiện sản xuất. Vì thế, khả năng trả nợ của các khách hàng này hầu như khó có thể khôi phục được.
- Sự kết nối giữa các tổ chức hoạt động tài chính vi mô chưa được chặt chẽ: Do nhiều lý do khác nhau, như thiếu nguồn tài chính, nguồn nhân lực chưa có kĩ năng điều hành mạng lưới, chưa có cơ chế và năng lực tạo nguồn tốt,... nên hoạt động còn mang tính chất cầm chừng, mang tính địa phương.
- Công tác tuyên truyền cho khách hàng và cộng đồng chưa được thực hiện tốt. Chỉ những ai đã là khách hàng mới cảm nhận được các điểm mạnh của loại hình này, nhiều khách hàng trở nên trung thành với tài chính vi mô. Tuy nhiên, do phạm vi hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô còn hạn chế, nguồn lực và nhân sự giới hạn, cộng đồng xã hội nói chung chưa thực sự hiểu rõ về lợi ích và đặc trưng của tài chính vi mô. Tác động của tài chính vi mô tới phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giảm nghèo cũng chưa được truyền thông đầy đủ và rõ ràng.
3. Khuyến nghị
3.1. Đối với các tổ chức tài chính vi mô
- Tăng cường công tác quản trị, điều hành và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Các tổ chức đã được cấp phép tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành, phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các bộ phận trong cơ cấu tổ chức; xây dựng cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, vận hành tổ chức hiệu quả nhằm đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh. Các tổ chức tài chính vi mô cần chú ý đến chính sách phát triển nguồn nhân lực thông qua việc hoàn thiện công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng nhân lực, lựa chọn và phân hạng nhân lực, chức danh tiền lương và chế độ khen thưởng, với mục tiêu nâng cao tầm và kỹ năng của cán bộ lãnh đạo, xây dựng đội ngũ nhân viên vừa có chuyên môn tốt, vừa có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Luôn tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các nhân viên, tạo động lực trong lao động, tránh tình trạng ngại học hỏi và từ đó nâng cao kinh nghiệm cho bản thân. Bên cạnh nhân viên có trình độ cao, hoạt động tài chính vi mô phải có những nhân viên yêu nghề, có kinh nghiệm lâu năm, trung thành với tổ chức mới tạo ra tính an toàn, chắc chắn trong công việc. Cải thiện môi trường làm việc làm cho nhân viên gắn kết với nhau hơn, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau sẽ góp phần tiết kiệm chi phí cho tổ chức tài chính vi mô.
- Tăng cường minh bạch hóa thông tin và bảo vệ quyền lợi khách hàng:
Để bảo vệ quyền lợi khách hàng và tăng uy tín của tổ chức, cần minh bạch hóa các thông tin cơ bản của tổ chức tài chính vi mô, như: lãi suất, các điều khoản hợp đồng, báo cáo tài chính... Đảm bảo tất cả các điều khoản cho vay khách hàng đều được biết và được giải thích rõ ràng. Các quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng gửi tiền, vay vốn được thể hiện rõ ràng trong các quy định, được niêm yết công khai. Thực hiện kiểm toán độc lập định kỳ đối với các báo cáo tài chính để tăng tính minh bạch của tổ chức, từ đó uy tín của tổ chức tài chính vi mô được xây dựng và củng cố.
- Đa dạng hóa và tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ:
Tổ chức tài chính vi mô cần tăng cường huy động tiết kiệm trong dân cư với các cách thức huy động khác nhau, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn với các mức lãi suất linh hoạt. Ngoài ra các tổ chức tài chính vi mô cần tìm kiếm và tận dụng các nguồn huy động rẻ một cách tương đối như: vốn từ các nhà tài trợ, các nhà đầu tư cho phát triển, vốn ủy thác của các tổ chức tín dụng. Đây là cơ sở quan trọng nhất để các tổ chức tài chính vi mô giảm lãi suất cho vay, tăng khả năng hoạt động bền vững. Bên cạnh đó, các tổ chức tài chính vi mô cần tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, cải tiến và áp dụng sản phẩm dịch vụ mới, như: đa dạng hóa cách trả gốc, trả lãi cho vay, cách huy động tiết kiệm để có thể đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau; phát triển một số dịch vụ như chuyển tiền qua điện thoại hoặc internet, đại lý bảo hiểm, đại lý thu chi hộ... nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính ngày càng cao của hộ nghèo, hộ có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
- Nâng cao năng lực tài chính:
Các tổ chức tài chính vi mô nên tăng cường các nguồn huy động vốn rẻ trên thị trường và từ các nhà tài trợ. Có chính sách vận động đầu tư cho phát triển xã hội từ các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, các hội đồng hương, hoặc từ những người đi xa hướng về xây dựng quê hương. Ngoài ra các tổ chức tài chính vi mô có thể chủ động sáp nhập để hình thành những tổ chức lớn hơn về quy mô và thị trường.
- Tăng cường tuyên truyền:
Tuyền truyền nên tập trung vào các vấn đề chủ chốt trong tài chính vi mô đối với cả khách hàng và các đơn vị thực hiện, giám sát. Làm rõ sự khác biệt giữa tài chính vi mô với tài chính truyền thống về mục đích, đối tượng khách hàng, đặc trưng hoạt động. Cung cấp các thông tin rõ ràng minh bạch về vấn đề lãi suất và chi phí giao dịch. Tăng cường tuyên truyền về lợi ích cho khách hàng và cộng đồng. Cần có các chương trình nghiên cứu, điều tra khảo sát về kiến thức tài chính của dân cư nhằm tiến tới xây dựng các chương trình, chiến lược về nâng cao kiến thức tài chính của dân cư. Hợp tác trong hoạt động với các tổ chức tài chính vi mô khác, tận dụng sức mạnh của chính quyền địa phương, đoàn thể chính trị - xã hội để tối ưu hóa hoạt động. Điều này giúp tăng uy tín của tổ chức đối với các nhà quản lý, cũng như uy tín chung đối với khách hàng, là cơ hội để phát triển thị trường tài chính vi mô trong tương lai.
3.2. Đối với đối tượng sử dụng dịch vụ tài chính vi mô
Người nghèo còn tồn tại tâm lý ỷ lại sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, chưa tự tin vươn lên thoát nghèo và linh hoạt tìm kiếm cơ hội mở rộng các hoạt động kinh tế, nhằm ổn định cuộc sống gia đình. Cần xác định rõ mục tiêu của việc vay vốn, nắm vững kiến thức và thông tin về quy trình vay vốn. Có kế hoạch sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả, kế hoạch trả nợ vay đúng thời hạn góp phần cải thiện mức sống gia đình, ổn định cuộc sống. Chủ động và tích cực tham gia các cuộc hội họp tại các Hiệp hội, các buổi tập huấn tại địa phương, để nắm bắt kịp thời các thông tin về kinh tế xã hội, các kinh nghiệm từ các thành viên trong nhóm giúp trao đổi thông tin kinh nghiệm sản xuất, góp phần cải thiện thu nhập cho gia đình, vươn tới mục tiêu giảm nghèo và thoát nghèo. Đối với người nghèo không ai có thể giúp họ thoát nghèo mà từ chính bản thân họ, lợi ích của việc tham gia các nhóm vay, các hội đoàn thể giúp họ có thông tin đa chiều hơn, tập hợp và đoàn kết các thành viên trong nhóm vay, mang lại cho người nghèo nhiều ích lợi thiết thực.
3.3. Đối với chính quyền địa phương
Cần quan tâm tạo điều kiện cho các đơn vị hoạt động tài chính vi mô phát triển, hỗ trợ nguồn vốn ban đầu cho các đơn vị hoạt động; đối với các tổ dân phố trên từng địa bàn cần kết hợp với các tổ chức tài chính vi mô thực hiện quy trình giám sát và xét duyệt vốn vay có hiệu quả, rà soát và tạo điều kiện cho các hộ gia đình thuộc diện chính sách được tiếp cận các nguồn vốn, để giúp họ thực hiện kế hoạch cải thiện mức sống, vươn lên thoát nghèo, bảm đảm chính sách an sinh xã hội tại các cấp chính quyền địa phương. Nắm bắt kịp thời thông tin hộ nghèo trong địa bàn là một khâu quan trọng trong công tác quản lý dân cư của các địa phương. Soát xét và cập nhật thường xuyên tình hình đời sống sinh hoạt của dân cư trong địa bàn để kịp thời phối kết hợp giữa các cấp ngành đoàn thể thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội của địa phương. Nắm bắt và đánh giá thực trạng của từng hộ gia đình nghèo, để cung cấp cho các tổ chức tài chính vi mô các thông tin kịp thời và thiết thực để thực hiện tốt hoạt động nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng đến các hộ nghèo.
Cần xem xét lại chuẩn nghèo để những người nghèo thật sự nhận được những hỗ trợ từ Nhà nước, qui định chuẩn nghèo theo Quyết định 59/2015/QĐ-TTg, ngày 19/11/2015 theo tôi là chưa phù hợp. Mức thu nhập quá thấp so với mức sống hiện tại ở Việt Nam và lại qui định cho cả giai đoạn 2016 - 2020. Vì vậy, Chính Phủ nên lấy mức lương tối thiểu chung trong từng giai đoạn để làm căn cứ xác định hộ nghèo, cận nghèo. Theo tôi giai đoạn 2016 - 2020, thu nhập bình quân đầu người 1.210.000 đồng/tháng có thể xếp vào hộ nghèo (điều chỉnh tùy theo việc thay đổi mức lương cơ bản). Để tính thu nhập cho các vùng nên dùng hệ số từng vùng (dựa vào mức sống) nhân với mức lương tối thiểu chung và việc phân vùng, chứ không chỉ phân khu vực thành thị và nông thôn. Việc xác định hộ nghèo, cận nghèo và thu nhập trung bình hàng năm cần có sự điều chỉnh hợp lý theo mức lương cơ bản được Chính phủ quy định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tổ chức Tài chính vi mô TNHH một thành viên Tình Thương, website: http://tymfund.org.vn/
2. Tổ chức tài chính vi mô TNHH M7, website: http://www.cfrc.vn/; https://www.m7mfi.vn/
3. Quỹ hỗ trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm (CEP), website: http://www.cep.org.vn/
4. Một số nguồn khác.
1 Khoa Tài chính Kế toán, ĐH Sài Gòn