Các chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng, triển vọng kinh tế Việt nam năm nay và các năm tiếp theo vẫn tích cực, nhưng các khó khăn trong và ngoài nước đòi hỏi các cấp có thẩm quyền cần tăng cường phối hợp và ứng phó chính sách dựa trên cơ sở dữ liệu.
Lạc quan nhưng hãy thận trọng
Đỗ Lê
Các chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng, triển vọng kinh tế Việt nam năm nay và các năm tiếp theo vẫn tích cực, nhưng các khó khăn trong và ngoài nước đòi hỏi các cấp có thẩm quyền cần tăng cường phối hợp và ứng phó chính sách dựa trên cơ sở dữ liệu.
Bất định gia tăng
Tại sự kiện công bố báo cáo “Điểm lại” của WB mới đây, bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam nhận định: “Bối cảnh toàn cầu năm 2022, có nhiều biến động và bất định, bị ảnh hưởng bởi tốc độ tăng trưởng chậm và cầu giảm, lạm phát cao, các điều kiện tài chính và tiền tệ thắt chặt cũng như mức độ phức tạp về địa chính trị gia tăng. Trong năm nay, đây sẽ tiếp tục là các rủi ro đối với kinh tế toàn cầu cũng như đối với Việt Nam - với tư cách là một nền kinh tế có độ mở cao”.
Theo kịch bản cơ sở trong báo cáo “Điểm lại” này, dù triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn thuận lợi, nhưng với những khó khăn trong nước và ngoài nước, dự kiến tăng trưởng GDP năm nay sẽ chỉ đạt 6,3%, trong khi lạm phát sẽ tăng cao hơn, ở mức 4,5%. Cụ thể theo bà Dorsati Madani - chuyên gia kinh tế cao cấp của WB, mặc dù lĩnh vực du lịch tiếp tục phục hồi, nhưng tăng trưởng của khu vực dịch vụ sẽ chững lại do hiệu ứng phục hồi sau Covid-19 đã nhạt đi. Trong khi đó, nhu cầu trong nước dự kiến bị ảnh hưởng do lạm phát dự kiến sẽ cao hơn (kỳ vọng lạm phát cao hơn; các áp lực tăng giá hàng hóa khi giá điện tăng, lương cơ sở tăng…). Khó khăn sẽ tập trung nhiều hơn trong nửa đầu năm 2023, khi dự kiến tốc độ tăng xuất khẩu hàng hóa sẽ tiếp tục chậm lại do nhu cầu tại Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro yếu đi, trong khi lộ trình phục hồi kinh tế của Trung Quốc còn nhiều bất định.
“Mặc dù vậy, các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam dự kiến sẽ phục hồi từ nửa cuối năm, qua đó đem lại tác động tích cực cho xuất khẩu. Tăng trưởng GDP dự kiến sẽ đạt 6,5% từ năm 2024 trở đi nhờ xuất khẩu khởi sắc hơn khi cả ba thị trường chính - Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro và Trung Quốc - đều được phục hồi. Trong khi đó, lạm phát bình quân cũng sẽ giảm dần, về mức 3,5% năm 2024 và 3% năm 2025”, chuyên gia này nhận định.
Dù kỳ vọng triển vọng tiếp tục tích cực, nhưng theo WB, trong bối cảnh các bất định vẫn gia tăng nên dự báo sẽ không dễ dàng và đang nghiêng về hướng suy giảm. Theo báo cáo “Điểm lại”, rủi ro theo hướng suy giảm bao gồm tăng trưởng có thể yếu hơn dự kiến ở các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam; các điều kiện tài chính tiếp tục bị thắt chặt; lạm phát trong nước có thể tăng cao hơn; bảng cân đối tài sản của khu vực doanh nghiệp, ngân hàng và hộ gia đình đang bộc lộ những yếu kém; và khu vực tài chính vẫn đang có nguy cơ dễ tổn thương. “Khó khăn ở trong nước và nước ngoài đòi hỏi phải ứng phó chính sách theo hướng thận trọng, và dựa vào bằng chứng, dữ liệu. Trong đó bao gồm quản lý chặt liên hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, giám sát chặt khu vực tài chính”, báo cáo khuyến nghị.
Ứng phó ngắn hạn, không quên dài hạn
Theo bà Dorsati Madani, trong ngắn hạn, Việt Nam hiện đối mặt với những rủi ro tăng liên quan đến những trở ngại bên ngoài và nguy cơ dễ tổn thương trong nước. Do đó, có hai nguyên tắc quan trọng mà Chính phủ và các cơ quan chức năng cần xem xét là: Đánh đổi, cân bằng như thế nào cho hợp lý giữa mục tiêu tăng trưởng và lạm phát; Phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để duy trì ổn định vĩ mô. Trong đó, chính sách tài khóa với những ưu tiên đầu tư công như hiện nay là rất quan trọng để hỗ trợ tăng trưởng, đồng thời giúp tạo thanh khoản cho nền kinh tế. Về chính sách tiền tệ, dù dư địa đã bị thu hẹp hơn, nhưng nếu lạm phát cơ bản và toàn phần tiếp tục gia tăng, nhà điều hành có thể cân nhắc thắt chặt tiền tệ hơn nữa qua tăng lãi suất, linh hoạt tỷ giá và đảm bảo hỗ trợ thanh khoản đầy đủ trên các thị trường để tránh tác động quá mức. “Nhưng các điều hành, quyết định cần dựa trên dữ liệu phù hợp và dựa trên giám sát chặt chẽ”, bà Dorsati Madani nói.
Trên thị trường hiện nay, doanh nghiệp mong muốn lãi suất hạ thấp hơn để có thêm điều kiện thuận lợi cho phục hồi sản xuất kinh doanh và thực tế lãi suất gần đây bắt đầu hạ nhiệt. Điều này dường như mâu thuẫn với khuyến nghị trên của WB. Lý giải điều này, bà Dorsati Madani cho biết, đây chỉ là một trong những công cụ có thể phải tính đến, chứ không phải là gợi ý NHTW Việt Nam nên tăng lãi suất ngay lúc này. “Bởi như chúng tôi đã nói, giả định tới đây các bất định bên ngoài tăng, như Fed tiếp tục tăng lãi suất hay lạm phát trong nước tiếp tục tăng thì có thể cần tăng lãi suất. Còn chúng ta không mong muốn điều đó xảy ra, như lạm phát tháng 2 vừa qua đã giảm tốc độ tăng một chút, nên có thể rủi ro này không xảy ra mà chỉ là một kịch bản tiềm năng mà chúng ta cần tính đến”, chuyên gia này lưu ý.
Trong khi đó theo bà Carolyn Turk, một số điểm yếu bộc lộ trên thị trường tài chính vừa qua có khả năng ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô và cần đảm bảo giải quyết được những điểm yếu này. “Chúng tôi nghĩ rằng, thực thi những cải cách một cách quyết liệt và đồng bộ là cần thiết để không chỉ đảm bảo sự ổn định mà còn đảm bảo hiệu quả và tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế”, bà Carolyn Turk nói và cho rằng, chính sách tài khóa và chính sách tài khóa đồng bộ để hỗ trợ nền kinh tế, đảm bảo ổn định vĩ mô là rất cần thiết trong ngắn hạn.
Bên cạnh đó, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam cũng nhấn mạnh, không như nhiều quốc gia khác, Việt Nam còn dư địa để triển khai các biện pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng. “Trong thời gian tới, chính sách tài khóa sẽ đóng vai trò quan trọng. Và việc tăng cường các công cụ về quản lý đầu tư công, thực hiện hiệu quả các dự án đầu tư công cũng như đảm bảo thực hiện ngân sách một cách hiệu quả sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng. Chúng ta không nên chỉ nghĩ tới phục hồi sau đại dịch Covid, hay không chỉ quản lý trong bối cảnh địa chính trị phức tạp hiện nay mà còn phải nghĩ đến tăng trưởng trong trung và dài hạn, xem đâu là những đầu tư cần thiết. Vì những quyết định đầu tư mà chúng ta đưa ra hiện nay sẽ quyết định nền kinh tế chúng ta sẽ có trong 10-20 năm tới như thế nào”, bà Carolyn Turk nói.