Sáng ngày 12/4/2016, Quốc hội khóa XIII họp phiên bế mạc kỳ họp thứ 11. Trong phiên họp này, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) 5 năm 2016-2020.
Mở đầu phiên họp, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2016-2020. Theo đó, đa số đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tán thành với các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển KT-XH 2016-2020. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH bổ sung vào trong báo cáo: Bội chi ngân sách nhà nước đến năm 2020 dưới 4% GDP; đến năm 2020, có 50% tỷ lệ lao động tham gia BHXH... Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, hầu hết ý kiến ĐBQH tán thành với các nhóm giải pháp chủ yếu trong dự thảo Nghị quyết. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, dự thảo Nghị quyết bổ sung các nhóm giải pháp về tăng cường ứng dụng KHCN trong phát triển KT-XH; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, các giải pháp cấp bách hỗ trợ các tỉnh đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi hạn hán và xâm nhập mặn.
Tiếp đó, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc trình bày dự thảo Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020. Với tỉ lệ 93,52% tổng số ĐBQH tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020. Nghị quyết đặt ra mục tiêu tổng quát: Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Giữ gìn hoà bình, ổn định, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nghị quyết đặt ra một số chỉ tiêu KT-XH chủ yếu cho giai đoạn 2016-2020. Cụ thể, về các chỉ tiêu kinh tế, tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm 6,5-7%/năm; GDP bình quân đầu người năm 2020 khoảng 3.200-3.500 USD; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP năm 2020 khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm khoảng 32-34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước năm 2020 dưới 4% GDP; năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30-35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1-1,5%/năm; tỉ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38-40%. Về các chỉ tiêu xã hội, Nghị quyết đặt mục tiêu tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội năm 2020 khoảng 40%; tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2020 đạt khoảng 65-70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2020 dưới 4%; đến năm 2020 có 9-10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế năm 2020 đạt trên 80% dân số; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0-1,5%/năm; tỷ lệ được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh năm 2020 là 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn; tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý năm 2020 là 85%; tỷ lệ chất thải y tế được xử lý năm 2020 là 95-100%; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%.
Để thực hiện các mục tiêu trên, các đại biểu Quốc hội đã thống nhất 10 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, bao gồm:
(i) Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực phát triển KT-XH. Theo đó, phấn đấu kiểm soát lạm phát dưới 4% các năm đầu kỳ kế hoạch và 3% vào năm 2020, điều hành lãi suất linh hoạt theo diễn biến lạm phát, điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước.
(ii) Thực hiện nghiêm Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Phí và lệ phí và các luật thuế. Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả vốn vay, giảm dần vay bảo lãnh Chính phủ, vay để cho vay lại; kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của chính quyền địa phương và các quỹ đầu tư có nguồn gốc từ ngân sách.
(iii) Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong đó, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư đạt chỉ số nhóm 4 nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á.
(iv) Thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả, thực chất, đúng mục tiêu, có thời hạn cụ thể. Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp tư nhân; hoàn thiện pháp luật, chính sách để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng các nguồn lực, nhất là về vốn, đất đai, tài nguyên. Đẩy mạnh tinh thần khởi nghiệp gắn với chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
(v) Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại.
(vi) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ. Phát triển hợp lý và từng bước bảo đảm bình đẳng giữa giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập.
(vii) Nghiên cứu, ban hành các cơ chế mang tính chất đột phá nhằm khuyến khích nghiên cứu khoa học và cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất lao động và gia tăng giá trị của sản phẩm.
(viii) Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Xây dựng một số viện nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo và vườn ươm công nghệ...
(ix) Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Ưu tiên nguồn vốn ODA, vốn ngân sách Nhà nước đầu tư kết cấu hạ tầng những nơi xung yếu phòng, tránh thiệt hại về người và tài sản của nhân dân, phổ cập đến toàn dân về các phương án ứng phó và thích nghi từng cấp độ của quá trình tác động biến đổi khí hậu.
(x) Kiểm tra, xử lý nghiêm hành vi gây ô nhiễm môi trường, nhất là tại khu vực nông thôn, các làng nghề, cụm công nghiệp địa phương và các lưu vực sông.
Trước mắt trong năm 2016, đầu tư một số dự án để phát huy hiệu quả chống khô hạn, xâm nhập mặn, nước biển dâng ở các tỉnh Nam Trung Bộ, các tỉnh Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Kiên trì đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia trong quản lý, sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong...
Anh Huy (ảnh: nguồn quochoi.vn)