Trước hết, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) xin trân trọng cảm ơn Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường đã quan tâm đến hoạt động của ngành Ngân hàng. Trong phiên thảo luận tại tổ về cơ cấu lại nền kinh tế và phiên thảo luận toàn thể tại Hội trường Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, Đại biểu đã có ý kiến liên quan đến kiểm soát nguồn vốn tín dụng vào lĩnh vực chứng khoán, bất động sản; phát triển ngân hàng số, mobile - money, công nghệ tài chính Fintech và tiền điện tử. Về vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xin trân trọng tiếp thu để hoàn thiện công tác chỉ đạo, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong thời gian tới, đồng thời cũng có ý kiến báo cáo, giải trình thêm với Đại biểu cụ thể như sau:
1. Về kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực chứng khoán, bất động sản
1.1. Đối với lĩnh vực kinh doanh chứng khoán
Thời gian qua, NHNN đã và đang kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực này, bao gồm cả hoạt động cho vay công ty chứng khoán để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cụ thể:
- Nhằm kiểm soát nguồn vốn tín dụng đổ vào thị trường chứng khoán, NHNN quy định tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với từng lĩnh vực đầu tư, kinh doanh cổ phiếu hoặc trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính không được vượt quá 5% vốn điều lệ, vốn được cấp của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính;
- Để kiểm soát chặt chẽ hoạt động mua trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng (TCTD), NHNN quy định một số nội dung như: TCTD không được mua rái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục đích cơ cấu lại các khoản nợ của doanh nghiệp; TCTD phải có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, xếp hạng doanh nghiệp phát hành trái phiếu, quy định kiểm soát nội bộ hoạt động mua rái phiếu doanh nghiệp …
- Để khắc phục tình trạng “tăng vốn ảo” khi TCTD nắm giữ trái phiếu lẫn nhau và hạn chế rủi ro khi ngân hàng mẹ thông qua các công ty chứng khoán để “đầu tư chéo” trái phiếu của nhau, NHNN quy định TCTD, công ty con của TCTD không được mua giấy tờ có giá do TCTD phát hành lần đầu trên thị trường sơ cấp; Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng cho khách hàng là công ty con, công ty liên kết để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu hoặc trái phiếu doanh nghiệp….;
- Để giới hạn vốn tín dụng đối với một khách hàng, nhóm khách hàng liên quan, Luật Các TCTD quy định tổng mức dư nợ cấp tín dụng (bao gồm cả tổng mức đầu tư vào trái phiếu do khách hàng phát hành) đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của TCTD.
1.2. Đối với lĩnh vực bất động sản (BĐS)
Nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực BĐS được hình thành từ nhiều nguồn vốn đa dạng khác nhau, bao gồm: vốn của chủ đầu tư, vốn đầu tư nước ngoài (vốn FDI và vốn đầu tư gián tiếp), kiều hối, vốn tự có của doanh nghiệp và người dân và các nguồn khác; Nguồn vốn tín dụng từ hệ thống TCTD chỉ là một phần nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực này.
NHNN coi lĩnh vực đầu tư kinh doanh BĐS là một trong các lĩnh vực rủi ro cần kiểm soát. Các giải pháp đã và đang thực hiện bao gồm:
- Ban hành các văn bản chỉ đạo TCTD: Kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực BĐS, mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng/nhóm khách hàng lớn, các dự án có quy mô lớn, phân khúc cao cấp, biệt thự, nghỉ dưỡng; tập trung nguồn vốn tín dụng đầu tư vào các dự án có hiệu quả cao, dự án nhà ở xã hội, các dự án nhà ở thương mại đáp ứng nhu cầu người dân, không thực hiện cấp tín dụng đối với các nhu cầu vay vốn để đầu cơ hoặc triển khai thực hiện các dự án tiềm ẩn rủi ro cao,...
- Ban hành các Thông tư về các tỷ lệ đảm bảo an toàn. Từ năm 2019 tới nay ban hành 02 Thông tư tiếp tục điều chỉnh giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo lộ trình1 và tăng hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay tiêu dùng lớn2, nhằm hướng tín dụng vào các phân khúc nhà ở thương mại giá rẻ, nhà ở xã hội.
- Thanh tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định về cấp tín dụng. Thường xuyên làm việc với các TCTD có tốc độ tăng trưởng tín dụng lĩnh vực BĐS nhanh, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ tín dụng; kịp thời có biện pháp xử lý, chỉ đạo TCTD có giám sát để hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh, đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD.
- Theo dõi chặt chẽ tình hình tín dụng đối với lĩnh vực BĐS, tín dụng đối với khách hàng dư nợ lớn; định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đề xuất giải pháp xử lý một số tồn tại khó khăn trong việc cấp tín dụng lĩnh vực này.
Nhờ vào triển khai các giải pháp nêu trên, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro (trong đó gồm lĩnh vực chứng khoán và bất động sản) vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Theo đó: (i) Tính đến 30/9/2021, dư nợ chứng khoán là 58.097 tỷ đồng và chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ 0,59% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế; (ii) tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản trong 03 năm gần đây giảm mạnh từ 26,76% năm 2018 xuống mức 12,06% năm 2020. Tính đến 30/9/2021, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng 9,13% so với tháng 12/2020, chiếm tỷ trọng 19,82% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế.
Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục kiểm soát chặt chẽ dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, trong đó có BĐS, chứng khoán; đồng thời, hướng dòng vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, các dự án, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có khả năng phục hồi sau dịch.
2. Về vấn đề phát triển ngân hàng số, mobile-money, công nghệ tài chính Fintech và tiền điện tử
2.1. Chuyển đổi số ngành ngân hàng không còn là sự lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc, là hướng đi chiến lược nhằm giúp ngành ngân hàng cạnh tranh hiệu quả và phát triển bền vững trong kỷ nguyên 4.0, đáp ứng tốt nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, phù hợp với xu hướng dịch chuyển số của các chủ thể trong nền kinh tế.
Do vậy, thời gian qua, NHNN đã chủ động nghiên cứu, xây dựng và ban hành nhiều chính sách nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ngân hàng số, như: (i) Ban hành Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 hướng tới mục tiêu phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện; (ii) Trình Chính phủ phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile Money), Nghị định thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt, Hồ sơ Đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng; phê duyệt Đề án phát triển TTKDTM; (iii) Ban hành hướng dẫn mở tài khoản thanh toán của cá nhân bằng phương thức điện tử eKYC; (iv) Ban hành các văn bản về đảm bảo an ninh an toàn, hoạt động nghiệp vụ và thống nhất tiêu chuẩn kỹ thuật (QR, thẻ chip...); (v) Cấp Giấy phép cho 46 tổ chức không phải là ngân hàng được thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Nhờ đó, hoạt động chuyển đổi số trong ngành ngân hàng đã đạt được kết quả tích cực như sau:
- Đến nay, có 20 ngân hàng triển khai chính thức quy trình mở tài khoản thanh toán eKYC với hơn 1,8 triệu tài khoản thanh toán mở bằng phương thức điện tử đang hoạt động, số lượng giao dịch đạt hơn 4,6 triệu món;
- 95% các TCTD triển khai Chiến lược chuyển đổi số; nhiều dịch vụ ngân hàng đã số hóa hoàn toàn như thanh toán, tiết kiệm, quản lý tài chính, đánh giá phân loại khách hàng; nhiều TCTD đã có tỷ trọng giao dịch trên kênh số đạt trên 90%;
- Nhiều giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới được ứng dụng trong hoạt động ngân hàng như công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML) và dữ liệu lớn (Big Data)... giúp đơn giản hóa quy trình thủ tục ngân hàng (giải ngân, cho vay...).
Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp, nhiệm vụ đề ra tại Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau: (i) Chuyển đổi nhận thức; chuẩn bị nguồn lực sẵn sàng cho hoạt động chuyển đổi số; (ii) Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi quá trình chuyển đổi số; (iii) Phát triển hạ tầng số, kết nối, chia sẻ dữ liệu ngân hàng với dữ liệu ngành, lĩnh vực khác; (iv) Phát triển các mô hình ngân hàng số, ứng dụng công nghệ CMCN 4.0 để cung ứng sản phẩm, dịch vụ an toàn tiện lợi với chi phí thấp; (v) Đảm bảo an toàn, an ninh mạng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
2.2. NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 09/3/2021 về việc phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money); đồng thời, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông thẩm định hồ sơ và chấp thuận cho 3 doanh nghiệp viễn thông (VNPT, MobiFone, Viettel) được chính thức triển khai thí điểm dịch vụ Mobile-Money trên toàn quốc.
Việc triển khai dịch vụ Mobile-Money cần phải thực hiện thí điểm do: (i) Là dịch vụ mới, triển khai trên nền tảng công nghệ, có phạm vi áp dụng trên toàn quốc, sẽ có số lượng người dùng lớn, yêu cầu cao về an ninh, an toàn bảo mật dịch vụ và dữ liệu người dùng nên có thể tiềm ẩn rủi ro phát sinh mà thời điểm hiện tại chưa thể lường hết trước được; (ii) Chưa được quy định ở một văn bản pháp lý nào (như Luật, Nghị định của Chính phủ) và không thuộc đối tượng quản lý của NHNN.
Sau thời gian 02 năm triển khai thí điểm, NHNN sẽ chủ trì phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an thực hiện tổng kết, đánh giá thí điểm, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị, đề xuất chính sách quản lý phù hợp.
2.3. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech) đối với ngành ngân hàng, NHNN đã tiếp cận với Fintech một cách chủ động, nghiên cứu đánh giá tác động, tìm hiểu cơ hội, thách thức của Fintech đối với ngành ngân hàng. Trên cơ sở đó, NHNN là cơ quan ngang Bộ đầu tiên nghiên cứu xây dựng trình và được Chính phủ thông qua hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo thuận lợi cho ứng dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng. Hiện, NHNN đang tập trung hoàn thiện dự thảo Nghị định để trình Chính phủ, trong đó, dự kiến quy định về phạm vi, đối tượng điều chỉnh, điều kiện của tổ chức tham gia thử nghiệm, các giải pháp thử nghiệm để các tổ chức tham gia thử nghiệm có cơ sở triển khai.
2.4. Khuôn khổ pháp lý về tiền điện tử đã được Ngân hàng Nhà nước đề xuất tại dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 80/2016/NĐ-CP) của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó làm rõ khái niệm, bản chất và hình thái biểu hiện của tiền điện tử; phạm vi, đối tượng và cơ chế quản lý, giám sát hoạt động cung ứng tiền điện tử. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng đang triển khai thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương.
Trên đây là báo cáo, giải trình của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về ý kiến của Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường trong phiên thảo luận tổ ngày 29/10/2021 và phiên thảo luận tại Hội trường về kinh tế - xã hội ngày 8-9/11/2021. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, ủng hộ hơn nữa của Đại biểu đối với hoạt động của ngành Ngân hàng.
Trân trọng cảm ơn Đại biểu./.