1
a) Tên Đề tài: Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại các Quỹ Tín dụng nhân dân Việt Nam
Mã số: ĐTNH.006/20
b) Tổ chức chủ trì thực hiện: Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng, NHNN
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: ThS. Lê Quang Huy Cục trưởng Cục III, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng, NHNN.
- Thư ký: TS. Nguyễn Thị Kim Thanh - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Quỹ tín dụng Nhân dân Việt Nam.
- Thành viên tham gia:
d) Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Cơ sở lý luận về kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ QTDND.
- Thực trạng cơ cấu và vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của các QTDND.
- Đề xuất mô hình kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ tại các QTDND.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 9/2020
- Thời gian kết thúc: Tháng 3/2022
e) Kinh phí thực hiện: 241,5 triệu đồng.
g) Kết quả thực hiện: Giỏi
h) Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu đề xuất hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB ) với kiểm toán nội bộ (KTNB ) tại các Quỹ Tín dụng nhân dân (QTDND) trên cơ sở làm rõ bản chất, sự khác biệt giữa KSNB và KTNB và thực trạng hệ thống KSNB và KTNB tại các QTDND Việt Nam hiện nay, đề tài ĐTNH.011/20 đã triển khai các nội dung nghiên cứu cụ thể như sau:
Chương 1 làm rõ các vấn đề cơ sở lý luận về KSNB và KTNB tại QTDND, bao gồm:
- Bản chất, mục tiêu; các cấu phần; nguyên tắc thiết lập hệ thống; tiêu chí đánh giá tính hiệu quả và hiệu lực của KSNB;
- Khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của KTNB; phương pháp, quy trình, tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của KTNV; các quy định đối với kiểm toán viên nội bộ.
Phân tích tại Chương 1 cho thấy hệ thống KSNB là một quá trình quản lý được thực hiện liên tục ở mọi cấp độ trong một tổ chức nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả và an toàn, tuân thủ đầy đủ các quy định. Trong khi đó, hệ thống KTNB nhằm mục tiêu chủ yếu là bảo đảm rằng tổ chức đang quản lý công việc một cách rõ ràng và cẩn trọng theo đúng quy định của pháp luật cũng như đang áp dụng những chính sách và thông lệ về quản trị phù hợp giúp họ kiểm soát được những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình hoạt động. Phân tích tại Chương 1 cũng cho thấy, trong thực tế vận hành tại QTDND có những nhầm lẫn giữa 2 khái niệm này dẫn tới việc hoặc là chồng chéo hoặc là bỏ qua các cơ chế kiểm soát và giám sát trong hoạt động kinh doanh. Việc phân biệt rõ 2 cấu phần này là vô cùng quan trọng giúp cho việc vận hành hệ thống KSNB được hiệu quả hơn, tránh trùng lắp, chồng chéo vừa gây tổn thất nguồn lực lại vừa không đạt được kết quả như mong muốn.
Chương 2 của đề tài nghiên cứu thực trạng cơ cấu và vận hành hệ thống KSNB và KTNB tại QTDND về cơ sở pháp lý, đặc điểm hoạt động, nguồn nhân lực và đánh giá tính hiệu quả và hiệu lực của KSNB và KTNB tại QTDND. Nghiên cứu tại Chương 2 cho thấy về căn cứ pháp lý, hoạt động KSNB và KTNB tại các QTDND được điều chỉnh bởi Luật các TCTD 2010 và Thông tư số 44/2011/TT-NHNN, được xây dựng chung cho các loại hình TCTD, bao gồm cả các NHTM, TCTD phi ngân hàng, QTDND... Đến nay, các quy định về hệ thống KSNB, KTNB cho các NHTM đã được sửa đổi, nhưng quy định riêng dành cho các QTDND thì chưa được xây dựng. Trong khi đó, có rất nhiều văn bản quy định để điều chỉnh các hoạt động cụ thể của QTDND.
Về thực tế, dù đa số các QTDND đã cố gắng triển khai theo đúng các quy định pháp lý hiện hành, song vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập như: sự quan tâm đến hệ thống KSNB của các QTDND còn rất hạn chế; cơ cấu tổ chức, phân công phân nhiệm, ủy quyền tại nhiều QTDND còn chưa đảm bảo các nguyên tắc và yêu cầu của hệ thống KSNB, vẫn có hiện tượng quyền lực được tập trung vào một số cán bộ lãnh đạo; Các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ được xây dựng chưa đầy đủ, chưa đảm bảo kiểm soát hết các rủi ro phát sinh trong các hoạt động; nhiều QTDND chưa thực sự coi trọng việc bố trí cơ cấu tổ chức cán bộ thực hiện nhiểm vụ KSNB, KTNB; trình độ cán bộ kể toán đa phần yếu... Thực tiễn này đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần hoàn thiện hệ thống các quy định về hệ thống KSNB, KTNB cho hệ thống QTDND.
Tại Chương 3, nhóm nghiên cứu phân tích các yếu tố chi phối mô hình hệ thống KSNB, KTNB của QTDND như sự chưa phù hợp của Thông tư 44 với thực tế và thông lệ quốc tế; sự khác biệt trong hoạt động của QTDND với các NHTM và thực tế về những sai phạm hiện nay của các QTDND. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề xuất mô hình quy định hệ thống KSNB cho QTDND. Cụ thể, KSNB cần được quy định cụ thể theo khuôn khổ COSO với 5 cấu phần: Môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, các hoạt động kiểm soát, thông tin - truyền thông và các hoạt động giám sát. Cấu trúc tổ chức quản trị của QTDND cần được thiết lập theo mô hình 3 tuyến phòng thủ do IIA xây dựng và Basel đã cụ thể hoá cho hoạt động của khối các tổ chức tài chính. Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất 07 nội dung cần chỉnh sửa tại Thông tư 44/2001/TT-NHNN và đề xuất một số vấn đề với Chính phủ và NHNN để có thể thực hiện có hiệu quả hệ thống KSNB và KTNB các QTDND.