1. Kiến nghị xem xét điều chỉnh hạn mức tín dụng một cách phù hợp nhằm tạo thuận lợi cho các ngân hàng trong giải ngân đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp (Cử tri tỉnh Tiền Giang)
- Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2022 khoảng 6-6,5% và lạm phát khoảng 4% của Quốc hội, Chính phủ, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Ngay từ đầu năm, NHNN đã thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2022 cho các tổ chức tín dụng (TCTD). Tiếp theo, ngày 31/8/2022, NHNN đã thực hiện điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2022 đối với các TCTD có đề nghị và có thông báo gửi các TCTD nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Việc phân bổ và điều chỉnh tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD dựa trên cơ sở kết quả xếp hạng từng TCTD, xem xét một số yếu tố cụ thể hóa chủ trương, định hướng điều hành của Chính phủ, NHNN như giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, TCTD tham gia hỗ trợ xử lý các ngân hàng kém, tín dụng tập trung vào lĩnh vực rủi ro... Những nội dung này đã được NHNN công bố ngay từ đầu năm tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/01/2022 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022.
- Trên thực tế, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng năm 2022 là khoảng 14%, cao hơn tăng trưởng tín dụng thực tế của cả 2 năm 2020-2021 (lần lượt là 12,17% và 13,61%). Đến ngày 2/12/2022, tín dụng tăng 11,95% so với cuối năm 2021, cao hơn so với cùng kỳ nhiều năm gần đây. Như vậy, dư địa để tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống TCTD hiện nay vẫn còn so với chỉ tiêu tín dụng định hướng.
- Trước tình hình tác động từ bên ngoài dịu bớt, thanh khoản của TCTD cải thiện hơn, ngày 5/12/2022, NHNN quyết định điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng định hướng năm 2022 thêm khoảng 1,5 - 2% cho toàn hệ thống các TCTD. Nguyên tắc điều chỉnh tăng chỉ tiêu tín dụng theo hướng, các TCTD có thanh khoản tốt hơn, lãi suất thấp hơn sẽ được tăng trưởng tín dụng cao hơn. Bên cạnh việc điều chỉnh tăng chỉ tiêu tín dụng, NHNN cũng yêu cầu các TCTD cân đối vốn phù hợp để cấp tín dụng, tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp phụ trợ…, các động lực tăng trưởng theo đúng chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, việc mở rộng tín dụng đi đôi với việc kiểm soát rủi ro kỳ hạn để đảm bảo thanh khoản, an toàn hoạt động, đảm bảo khả năng chi trả cho doanh nghiệp và người dân, nhất là dịp Tết Nguyên đán; đồng thời, theo dõi sát diễn biến tình hình, có giải pháp hỗ trợ thanh khoản kịp thời, trường hợp cần thiết hỗ trợ với kỳ hạn dài hơn, kể cả kéo dài thời hạn qua Tết để các TCTD yên tâm hơn khi cấp tín dụng.
- Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành tín dụng theo chỉ tiêu định hướng nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng; hướng dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, tiếp cận tín dụng ngân hàng. Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và tình hình thị trường để có giải pháp điều hành phù hợp.
2. Kiến nghị điều chỉnh một số điều kiện tín dụng cho phù hợp với từng nhóm doanh nghiệp, theo điều kiện của từng vùng, miền; tăng quyền quyết định hạn mức cho các chi nhánh (Cử tri tỉnh Thanh Hóa)
- Theo quy định tại Điều 7 Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) 2010 và quy định của NHNN về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng, TCTD có quyền tự chủ trong hoạt động cho vay và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình; không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cho vay của TCTD.
- Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của NHNN về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng quy định mức cho vay, hạn mức cho vay của TCTD với khách hàng do TCTD và khách hàng thỏa thuận, cụ thể:
+ Mức cho vay (Điều 12): TCTD căn cứ vào phương án sử dụng vốn, khả năng tài chính của khách hàng, các giới hạn cấp tín dụng đối với khách hàng và khả năng nguồn vốn của TCTD để thỏa thuận với khách hàng về mức cho vay.
+ Hạn mức cho vay (khoản 4, khoản 5 Điều 27): TCTD xác định và thỏa thuận với khách hàng một mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo đó, việc xem xét quyết định cấp hoặc tăng hạn mức cho vay cho khách hàng do TCTD xem xét quyết định trên cơ sở đề nghị của khách hàng, đánh giá của TCTD về việc khách hàng đáp ứng các điều kiện vay vốn, đảm bảo phù hợp quy định của pháp luật.
- Ngay từ đầu mỗi năm, NHNN thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng toàn hệ thống. Định kỳ rà soát, xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng TCTD trên cơ sở tình hình hoạt động, năng lực tài chính, khả năng tăng trưởng lành mạnh... Các nội dung này đã được NHNN định hướng tới các TCTD ngay từ đầu năm tại Chỉ thị 01 hàng năm. Đối với hạn mức tín dụng của các chi nhánh trực thuộc TCTD là do Hội sở chính của TCTD đó giao trong hệ thống, thuộc sự chủ động của TCTD.
- Ngoài ra, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua các TCTD đã triển khai một số chương trình, chính sách tín dụng đặc thù đối với ngành, lĩnh vực như: Cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP; Cho vay phát triển công nghiệp hỗ trợ theo Nghị định 111/2015/NĐ-CP; Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP, Nghị định 116/2018/NĐ-CP; Cho vay đóng mới, nâng cấp tàu theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP; Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017; Cho vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định 68/2013/QĐ-CP... Các chính sách này áp dụng chung đối với các doanh nghiệp, các đối tượng theo quy định và đều tuân thủ các điều kiện cho vay chung của TCTD đối với khách hàng, không phân biệt vùng miền và không phân giao hạn mức theo từng chi nhánh TCTD.
3. Kiến nghị xem xét, mở rộng ngành nghề được hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh và Thông tư 03/2022/TT-NHNN ngày 20/5/2022 hướng dẫn ngân hàng thương mại thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP. (Cử tri tỉnh Tiền Giang)
Các đối tượng, ngành, lĩnh vực được hỗ trợ tại Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/05/2022 của Chính phủ được cụ thể hóa từ Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với kiến nghị của cử tri, NHNN xin ghi nhận để phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư (cơ quan đầu mối tham mưu về đối tượng được hỗ trợ lãi suất) xem xét, đánh giá trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định.
4. Kiến nghị hỗ trợ lãi suất cho vay bằng đô la (USD) đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. (Cử tri tỉnh Tiền Giang)
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, NHNN đã và đang triển khai đồng bộ các biện pháp để hạn chế tình trạng đô la hóa nền kinh tế1, trong đó có việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay bằng ngoại tệ, dần chuyển từ quan hệ vay mượn sang quan hệ mua bán nhằm ổn định thị trường ngoại tệ và tăng niềm tin của người dân vào đồng nội tệ. Việc triển khai hỗ trợ lãi suất cho vay ngoại tệ sẽ làm tăng nhu cầu ngoại tệ, đặc biệt là trong bối cảnh thị trường quốc tế diễn biến phức tạp có thể gây ra áp lực tới tỷ giá trong nước và mục tiêu chính sách tiền tệ, làm giảm hiệu lực các chính sách hạn chế tình trạng đô la hóa đang được triển khai hiện nay. Mặt khác, trên thực tế, lãi suất cho vay bằng ngoại tệ thường thấp hơn so với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam. Do đó, khi vay vốn bằng ngoại tệ, doanh nghiệp đã được vay với mức lãi suất thấp hơn so với việc vay vốn bằng đồng Việt Nam.
Vì vậy, việc hỗ trợ lãi suất tại Nghị định số 31/2022/NĐ-CP áp dụng đối với khoản vay bằng VNĐ là phù hợp với chủ trương chung của Chính phủ về hạn chế tình trạng đô la hóa nền kinh tế trong thời gian qua.
5. Kiến nghị tiếp tục khoanh nợ để cho người dân tiếp tục làm ăn, do rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. (Cử tri Thanh Hóa)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) là đơn vị đầu mối tham mưu trình Chính phủ ban hành, theo dõi việc triển khai Nghị định 672. Hiện nay, Bộ NN&PTNT đang được giao phối hợp với các đơn vị liên quan sửa đổi, bổ sung Nghị định 67 để tháo gỡ khó khăn trong triển khai chính sách. Về phía NHNN sẽ tích cực phối hợp với Bộ NN&PTNT trong quá trình sửa đổi bổ sung chính sách. Tuy nhiên, trong trường hợp đặt ra cơ chế khoanh nợ, cần tính đến nguồn ngân sách cấp bù lãi suất cho các ngân hàng trong thời gian khoanh nợ, đồng thời, cũng cần đánh giá khả năng trả nợ của ngư dân sau khi hết thời gian khoanh nợ,...
Để hỗ trợ ngư dân khai thác thủy sản hiệu quả hơn, tiếp tục vươn khơi bám biển góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo, đồng thời tạo nguồn thu trả nợ ngân hàng, cần có sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt từ các Bộ, ngành, địa phương, cụ thể: (i) Bộ NN&PTNT khẩn trương phối hợp các đơn vị có liên quan sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách theo Nghị định 67 giải quyết khó khăn vướng mắc về chính sách; (ii) Các Bộ, ngành, địa phương thực hiện rà soát lại nguồn thủy sản, ngư trường, quy hoạch phát triển tàu cá, hướng dẫn ngư dân tổ chức lại sản xuất để phát triển bền vững; đẩy mạnh triển khai các chính sách hỗ trợ bảo hiểm, hỗ trợ tiền dầu, duy tu, bảo dưỡng; (iii) Các cấp chính quyền địa phương cần tiếp tục quan tâm, hỗ trợ ngành ngân hàng trong quá trình thu hồi nợ vay; đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân hiểu chính sách của Nhà nước, nâng cao trách nhiệm trả nợ vay ngân hàng để chính sách phát huy hiệu quả, hạn chế nợ xấu ngân hàng.
6. Kiến nghị mở rộng đối tượng đủ điều kiện vay vốn từ các nguồn vốn chương trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) và hộ cận nghèo dân tộc thiểu số, hộ cận nghèo dân tộc kinh cư trú hợp pháp ở xã không nằm trong vùng khó khăn, được vay vốn theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 của Chính phủ về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030. (Cử tri tỉnh Lào Cai)
6.1. Về nguồn vốn và đối tượng của Nghị định số 28/2022/NĐ-CP
Trong năm 2020, năm 2021, Quốc hội đã ban hành các Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) giai đoạn 2021-2025 bao gồm: Nghị quyết số 120/2020/QH14 phê duyệt Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Nghị quyết số 24/2021/QH15 phê duyệt Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững, Nghị quyết số 25/2021/QH15 phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Tại các Nghị quyết này, Quốc hội đã phân giao nguồn vốn cụ thể, yêu cầu đặt ra cho từng chương trình, tránh thực hiện dàn trải, chồng chéo. Đối với chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Quốc hội phê duyệt 10 dự án thành phần với từng đối tượng thụ hưởng cụ thể.
Về chính sách tín dụng thực hiện Chương trình MTQG, thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 120/2020/QH14 của Quốc hội, Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành liên quan và Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1: 2021-2025. Nghị định số 28/2022/NĐ-CP được xây dựng, ban hành trên cơ sở tuân thủ các quy định về nguồn vốn tín dụng chính sách đã được phê duyệt tại Nghị quyết số 120/2020/QH14 của Quốc hội, quy định về các chính sách tín dụng ưu đãi và đối tượng thụ hưởng chính sách tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm đảm bảo đủ nguồn lực và hiệu quả thực hiện Chương trình, không gây chồng chéo chính sách.
6.2. Về chương trình tín dụng đối với hộ cận nghèo
Tại Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ, đối tượng vay vốn của chương trình là hộ cận nghèo theo chuẩn hộ cận nghèo được quy định trong từng thời kỳ, trong đó đã bao gồm cả hộ cận nghèo người dân tộc thiểu số, hộ cận nghèo người dân tộc Kinh không nằm trong vùng khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi như đề nghị của cử tri tỉnh Lào Cai.
Đến 30/11/2022, dư nợ của chương trình tín dụng hộ cận nghèo đạt 39.463 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 14,1% trên tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách, với hơn 862 ngàn khách hàng còn dư nợ, là một trong 5 chương trình tín dụng có dư nợ cao nhất tại NHCSXH.
1 Tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, điểm b khoản 2 mục I Điều 1 đưa ra mục tiêu cụ thể: “... Giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng, phấn đấu tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đạt mức dưới 7,5% vào năm 2020 và mức 5% vào năm 2030; tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế…”; điểm b khoản 3 mục II Điều 1, đưa ra nhiệm vụ và giải pháp: “Thực hiện đồng bộ các biện pháp tiến tới xóa bỏ cơ bản tình trạng đô la hóa nền kinh tế đến năm 2030; hạn chế cho vay bằng ngoại tệ, chuyển dần quan hệ huy động vốn và cho vay ngoại tệ giữa TCTD với khách hàng sang quan hệ mua bán ngoại tệ để bảo đảm thanh khoản ngoại tệ và tăng dự trữ ngoại hối”.
2 Nghị định 67 và các văn bản sửa đổi Nghị định 67 không có quy định về chính sách khoanh nợ.