Skip to Main Content
Lỗi

State bank of vietnam portal

the state bank of viet nam

|
  • News
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
  • Inspection & Supervision
    • Inspection & Supervision performance
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Statistics
    • Balance of International Payment
    • Total Liquidity
      • Total Liquidity & Deposits with Credit Institutions
      • Cash in Total liquidity
    • Settlements
      • National Payment System Transactions
      • Domestic Transactions by Means of Payment
      • Trasactions via ATM.POS/EFTPOS/EDC
      • Number of Bank Cards
      • Deposits in Indivisudual Payment Accounts
      • List of Non-Bank Payment Service Suppliers
    • Credit to the Economy
    • Performance of Credit Institutions
      • Key Statistical RatiosKey Statistical Ratios
      • Ratio of loan outstanding over total deposits
      • Ratio of NPLs over Total Loan Outstanding
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Văn bản quy phạm pháp luật
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
Trang chủ
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Văn bản quy phạm pháp luật
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
  • Fintech - Nghiên cứu trao đổi
  • Chuyên đề khác

Kết quả khảo sát BIS năm 2022 về tiền kỹ thuật số và tiền điện tử của NHTW

25/07/2023 20:52:00
0:00
/
0:00
Giọng Nam
  • Giọng Nam
  • Giọng Nữ

Khảo sát mới nhất của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) với 86 ngân hàng trung ương (NHTW) về quan điểm và kế hoạch của họ đối với tiền điện tử NHTW (CBDC) cho thấy hầu hết các NHTW đang nghiên cứu CBDC và hơn ½ ngân hàng được khảo sát đang tiến hành các thử nghiệm hoặc dự án thí điểm.

Đặc điểm cuộc khảo sát năm 2022

Khảo sát năm 2022 của BIS về CBDC và tiền điện tử được tiến hành năm thứ sáu liên tiếp. Khảo sát có sự tham gia của 86 NHTW từ các khu vực đại diện cho 82% dân số thế giới và 94% sản lượng kinh tế toàn cầu. Trong đó, 28 NHTW thuộc các nền kinh tế tiên tiến (AE) và 58 thuộc các nền kinh tế thị trường mới nổi và đang phát triển (EMDE); 67 trong số này đã tham gia khảo sát năm 2021 và 38 hiện đã trả lời lần thứ năm; qua đó, cho phép đánh giá quan điểm và tình trạng tham gia của CBDC đã thay đổi như thế nào theo thời gian.

Hầu hết các câu hỏi của những năm trước không thay đổi để đảm bảo tính nhất quán. Cuộc khảo sát đã hỏi các NHTW liệu họ có đang tiến hành các công việc về một CBDC (bán lẻ, bán buôn hay cả hai) không và nếu có thì công việc đã tiến triển đến đâu? Các động cơ và kỳ vọng hiện tại về khả năng phát hành các loại CBDC này và liệu các NHTW có thẩm quyền pháp lý để phát hành CBDC hay không? Một số câu hỏi mới được bổ sung để tìm hiểu về sự hợp tác của các NHTW với các tổ chức khác cũng như sự khác biệt giữa CBDC bán lẻ và hệ thống thanh toán nhanh. Các NHTW cũng được hỏi về việc sử dụng tiền điện tử cho các mục đích thanh toán cụ thể, từ thanh toán bán buôn trong nước đến thanh toán xuyên biên giới của người tiêu dùng.

Trong khảo sát của BIS, CBDC được định nghĩa là một công cụ thanh toán kỹ thuật số, có mệnh giá bằng đơn vị tiền tệ quốc gia, là nghĩa vụ nợ trực tiếp của NHTW. Nếu CBDC dành cho các hộ gia đình và doanh nghiệp sử dụng cho các giao dịch hàng ngày, thì nó được dành cho “mục đích chung” hay là CBDC “bán lẻ”. CBDC bán lẻ khác với các hình thức công cụ thanh toán không dùng tiền mặt hiện có (như chuyển khoản tín dụng, ghi nợ trực tiếp, thanh toán thẻ và tiền điện tử), vì nó thể hiện yêu cầu trực tiếp đối với NHTW chứ không phải trách nhiệm pháp lý của một tổ chức tài chính tư nhân.

Ngược lại, CBDC bán buôn hướng đến một nhóm người dùng cuối khác. CBDC bán buôn được dùng cho các giao dịch giữa các ngân hàng, NHTW và các tổ chức tài chính khác. Vì vậy, các CBDC bán buôn sẽ đóng vai trò tương tự như các khoản dự trữ hoặc số dư quyết toán được giữ tại các NHTW. Tuy nhiên, CBDC bán buôn có thể cho phép các tổ chức tài chính tiếp cận các chức năng mới nhờ công nghệ tokenisation.

Tài sản tiền điện tử được định nghĩa trong cuộc khảo sát này là một loại tài sản kỹ thuật số do khu vực tư nhân phát hành, chủ yếu phụ thuộc vào công nghệ mã hóa và sổ cái phân tán hoặc công nghệ tương tự. Trái với CBDC, tài sản tiền điện tử không đại diện cho nghĩa vụ của NHTW. Các loại tiền ổn định như Tether và USD Coin là các loại tiền điện tử nhằm mục đích duy trì giá trị ổn định bằng cách gán giá trị của chúng vào một tài sản cụ thể, hoặc một nhóm hay rổ tài sản.

Vào cuối năm 2022, với vốn hóa thị trường dưới 140 tỷ đô la, các loại stablecoin chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ trong toàn lĩnh vực, chỉ hơn 15% giá trị của tất cả các loại tiền điện tử. Vì m/ục đích của chúng nhằm duy trì giá trị ổn định, nên các stablecoin có thể có tiềm năng cao hơn các loại tiền điện tử khác không được đảm bảo. Do đó, chúng đã thu hút sự chú ý đáng kể từ các NHTW, cơ quan quản lý và các nhà thiết lập tiêu chuẩn quốc tế.

Các kết quả khảo sát chính

Các chương trình thử nghiệm và thí điểm của CBDC đang được triển khai tốt. Trong năm 2022, tỷ lệ NHTW tham gia vào các công việc liên quan CBDC đã tăng lên 93%. Kể từ năm 2021, các NHTW này chỉ tập trung vào CBDC bán lẻ hoặc tham gia vào cả CBDC bán lẻ và bán buôn. Hơn 1/2 số NHTW đang tiến hành các thử nghiệm hoặc thí điểm CBDC. Nhiều NHTW đã hoàn thành các thử nghiệm CBDC bán lẻ hoặc bán buôn vào năm 2022. Ví dụ, Sveriges Riksbank đã thử nghiệm giải pháp kỹ thuật cho một đồng e-krona và Fed New York đã công bố nghiên cứu chứng minh cách một loại CBDC bán buôn có thể tăng tốc đáng kể các giao dịch xuyên biên giới.

Các hoạt động về CBDC bán lẻ có nhiều tiến bộ nhất. Gần 1/4 NHTW đang thí điểm CBDC bán lẻ, tức là gấp đôi tỷ lệ NHTW xây dựng hoặc thí điểm CBDC bán buôn. Hơn nữa, có nhiều CBDC bán lẻ đang hoạt động hoặc đang được sản xuất hơn so với CBDC bán buôn: 02 NHTW đang làm việc trên một CBDC bán lẻ trực tiếp và 02 NHTW khác đã phát hành một CBDC, trong khi 01 NHTW đang nghiên cứu một CBDC bán buôn trực tiếp.

Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng các EMDE đạt nhiều tiến bộ hơn so với các AE liên quan đến CBDC: tất cả các CBDC sống hiện tại đều được phát hành tại các khu vực pháp lý của EMDE. Ngoài ra, tỷ lệ các NHTW EMDE thí điểm CBDC bán lẻ (29%) và bán buôn (16%) cao gần gấp đôi so với các AE (lần lượt là 18% và 10%).

CBDC bán lẻ nhằm cải thiện hiệu quả thanh toán và tài chính toàn diện. Động lực của NHTW cho các cân nhắc phát hành CBDC bán lẻ đang gần nhau hơn. Những năm qua, sự an toàn và hiệu quả thanh toán nội địa đã là động lực quan trọng gần như ngang nhau tại cả AE và EMDE. Các NHTW cũng coi trọng sự ổn định tài chính và các hiệu quả thanh toán xuyên biên giới.

Tuy nhiên, có hai điểm khác biệt chính giữa AE và EMDE là hoạt động của CBDC bán lẻ trong EMDE thường được thúc đẩy bởi các động lực liên quan đến tài chính toàn diện hơn; các NHTW tại EMDE cũng coi trọng việc thực thi chính sách tiền tệ hơn như một lý do để khám phá hoặc phát triển CBDC. Tuy nhiên, sự khác biệt về động lực liên quan đến chính sách tiền tệ của họ đã trở nên nhỏ hơn kể từ năm 2021.

CBDC bán buôn để tăng cường thanh toán xuyên biên giới. Như những năm trước, sự tham gia của các NHTW vào công việc liên quan đến CBDC bán buôn được thúc đẩy bởi các động cơ khác với những động lực cho CBDC bán lẻ. Trái CBDC bán lẻ, tài chính toàn diện là động lực ít quan trọng nhất đối với CBDC bán buôn. Thay vào đó, nghiên cứu CBDC bán buôn ở AE và EMDE chủ yếu mong muốn tăng cường thanh toán xuyên biên giới. Một ví dụ là Dự án Dunbar – hợp tác giữa Ngân hàng Dự trữ Úc, NHTW Malaysia, Cơ quan Tiền tệ Singapore, Ngân hàng Dự trữ Nam Phi và Trung tâm Đổi mới BIS đã khám phá cách một nền tảng chung cho nhiều CBDC có thể cho phép thanh toán xuyên biên giới rẻ hơn, nhanh hơn và an toàn hơn.

Trong số những thách thức chính mà các NHTW cân nhắc có thể được giảm bớt bằng CBDC bán buôn là số giờ hoạt động hạn chế của các hệ thống thanh toán hiện tại, độ dài của chuỗi giao dịch hiện có và quy trình kiểm tra tuân thủ phức tạp. Quả thật, nếu cơ sở hạ tầng CBDC được cung cấp 24/7, điều này sẽ giải quyết vấn đề giờ hoạt động không phù hợp giữa các khu vực pháp lý. Ngoài ra, tùy thuộc vào thiết kế và chính sách truy cập của NHTW phát hành, CBDC bán buôn có khả năng giảm số lượng các trung gian, do đó rút ngắn chuỗi giao dịch và nâng cao hiệu quả xử lý thanh toán và các giao thức tuân thủ. Điều thú vị là rào cản từ sự phức tạp của việc kiểm tra tuân thủ có thể được giải quyết bởi một CBDC bán buôn được các EMDE đặc biệt đề cập nhưng các AE thì ít đề cập đến hơn.

CBDC và các hệ thống thanh toán nhanh được coi là sự bổ sung cho nhau. Trong hai thập kỷ qua, các hệ thống thanh toán nhanh (FPS) đã lan rộng khắp thế giới. Hơn 70% khu vực pháp lý được khảo sát có FPS và 18% có kế hoạch ra mắt một hệ thống này. Tính khả dụng của FPS hiện tại ở AE (84%) cao hơn ở EMDE (70%), nhưng EMDE có nhiều khả năng có kế hoạch ra mắt một FPS.

Được sở hữu và điều hành bởi các NHTW, các tổ chức khu vực tư nhân hoặc sự kết hợp của các tổ chức này, FPS xử lý các giao dịch dựa trên tài khoản có giá trị nhỏ để tiền được chuyển đến người nhận thanh toán theo thời gian thực hoặc gần thời gian thực và trên cơ sở 24/7 (hoặc gần với thời gian thực). Ngoài việc cung cấp cho người dùng tốc độ cao và tính khả dụng 24/7, FPS có thể cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng, như tính năng yêu cầu thanh toán hoặc thanh toán thông qua số điện thoại di động hoặc địa chỉ email, thay vì số tài khoản ngân hàng. Theo khảo sát, 7/10 khu vực pháp lý đã có kế hoạch nâng cấp FPS với các chức năng bổ sung.

Tùy thuộc vào thiết kế, FPS và CBDC bán lẻ có thể đạt được các mục tiêu tương tự, như tăng cường tài chính toàn diện và thúc đẩy thanh toán trong nước và xuyên biên giới nhanh hơn, hiệu quả hơn. Ngoài ra, cả hai đều cho phép đổi mới rộng rãi hơn và tăng cường cạnh tranh, điều này có thể làm tăng tính khả dụng và khả năng tiếp cận của các sản phẩm và dịch vụ thanh toán rẻ hơn. Sự đa dạng và cạnh tranh hơn cũng có thể dẫn đến một hệ sinh thái thanh toán linh hoạt hơn. Tuy nhiên, sự khác nhau cơ bản ở chỗ CBDC là tiền của NHTW, trong khi FPS liên quan đến tiền của ngân hàng thương mại.

Theo khảo sát, trên 80% NHTW cho rằng, về nguyên tắc, việc có đồng thời FPS và CBDC có thể mang lại giá trị. Điều này chủ yếu là do các NHTW tin rằng CBDC có các thuộc tính cụ thể và có thể cung cấp các tính năng bổ sung, như là một dạng tiền kỹ thuật số không rủi ro và cho phép tiếp cận nhiều tổ chức tài chính hơn cũng như đến những người dân không có tài khoản ngân hàng. Ngoài ra, khả năng lập trình và thanh toán ngoại tuyến là các tính năng mà FPS có thể không cung cấp. Một số NHTW tin rằng điều này có thể mang lại lợi ích cho hiệu quả và khả năng chống chịu của thị trường thanh toán. Tùy thuộc vào thiết kế của từng loại, một số NHTW tin rằng FPS cũng có thể bổ sung cho CBDC, như khi nhắm mục tiêu các trường hợp sử dụng khác nhau hoặc cung cấp các dịch vụ gia tăng.

Dự kiến ​​sẽ có nhiều CBDC trở thành hiện thực trong tương lai gần. Tỷ lệ các NHTW có khả năng phát hành CBDC bán lẻ trong vòng ba năm tới đã tăng từ 15% năm ngoái lên 18%. Đồng thời, số NHTW có thể sớm phát hành CBDC bán lẻ tăng lên (68% so với 64% vào năm ngoái), các NHTW cũng đang trở nên dứt khoát hơn về các kế hoạch CBDC ngắn hạn của họ. Như những năm trước, khả năng phát hành CBDC bán lẻ đối với các NHTW tại EMDE thường cao hơn so với AE. Khả năng phát hành CBDC bán buôn trong ngắn hạn cũng tăng so với năm trước: 16% NHTW cho rằng có khả năng họ sẽ có CBDC bán buôn trong vòng ba năm tới - gấp đôi mức 8% của năm ngoái. Hơn nữa, 58% có khả năng hoặc có thể phát hành một CBDC trong trung hạn (tăng từ 54% vào năm ngoái), mức độ này tại các EMDE cũng cao hơn so với AE.

Hiện có bốn CBDC bán lẻ trực tiếp trên thế giới tại: Bahamas, Đông Caribê, Jamaica và Nigeria, và có thể sẽ có 15 CBDC bán lẻ và 09 CBDC bán buôn được lưu hành công khai vào cuối thập kỷ này.

Sự không chắc chắn về cơ sở pháp lý để phát hành CBDC. Việc phát hành CBDC yêu cầu một khung pháp lý cho phép các NHTW thẩm quyền để làm như vậy, tỷ lệ có một khung pháp lý đã tăng nhẹ từ 26% lên 27%. Ngoài ra, khoảng 8% khu vực tài phán hiện đang thay đổi luật của họ hoặc để làm rõ cơ quan có thẩm quyền pháp lý cho phép điều đó (Ví dụ: Ủy ban Châu Âu có kế hoạch đề xuất quy định thành lập đồng euro kỹ thuật số vào quý II/2023). Tuy nhiên, 1/4 NHTW thiếu nền tảng pháp lý cần thiết và khoảng 40% không chắc chắn.

Ngày càng nhiều NHTW xem xét phân phối CBDC bán lẻ thông qua khu vực tư nhân. Hầu hết NHTW đang xem xét kiến ​​trúc CBDC bán lẻ có sự tham gia của khu vực tư nhân. Các NHTW có thể phân phối CBDC cho công chúng một cách trực tiếp hoặc thông qua các trung gian khu vực tư nhân. Khảo sát cho thấy 87% NHTW tham gia vào một số hình thức hoạt động của CBDC đang cân nhắc sử dụng các trung gian tư nhân. Hầu hết các NHTW nhận thấy vai trò của khu vực tư nhân là giới thiệu khách hàng, bao gồm việc thực hiện các thủ tục xác thực khách hàng (KYC); phòng, chống rửa tiền/chống tài trợ khủng bố (AML/CFT); cung cấp ví, giao diện người dùng và các dịch vụ khách hàng đầu cuối khác. Khoảng 60% NHTW cũng cho rằng việc ghi lại các giao dịch bán lẻ và cập nhật số dư bán lẻ có thể được giao cho khu vực tư nhân.

Các NHTW hợp tác với các bên liên quan khác nhau để thông tin về các lựa chọn thiết kế. Ý nghĩa và việc ứng dụng một CBDC tiềm năng phụ thuộc rất nhiều vào các đặc tính cụ thể của nó, ví dụ liên quan công nghệ được sử dụng và các trường hợp sử dụng mà nó sẽ hỗ trợ. Gần 93% NHTW đang phát triển hoặc tiến hành thử nghiệm ý tưởng, thí điểm hoặc vận hành CBDC đã hợp tác hoặc đối thoại với các bên liên quan khác để đưa ra các lựa chọn thiết kế. Sự tham gia của các bên liên quan thường tại AE lớn hơn so với EMDE và phổ biến hơn đối với CBDC bán lẻ so với CBDC bán buôn.

Đối với các CBDC bán lẻ, các NHTW chủ yếu hợp tác với chính phủ và/hoặc các cơ quan công quyền khác, các nhà cung cấp công nghệ bên ngoài và các tổ chức tư nhân khác, như ngân hàng thương mại. Ví dụ, Cơ quan tiền tệ Hồng Kông gần đây cho biết Nhóm chuyên gia CBDC sẽ được thành lập để tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa chính phủ, ngành và các nhà khoa học để nghiên cứu CBDC. Đến nay, 1 NHTW tại AE và 1 tại EMDE thu hút người dùng cuối tham gia vào hoạt động CBDC bán lẻ của họ. Các ví dụ bao gồm các cuộc tham vấn cộng đồng của NHTW Canada, Anh, Peru và nghiên cứu nhóm tập trung do ECB tổ chức.

Một phát hiện đáng chú ý là các NHTW ít liên quan đến các cơ quan công quyền hơn trong các hoạt động CBDC bán buôn so với CBDC bán lẻ. Ngoài ra, đối với các CBDC bán buôn, sự hợp tác và đối thoại với các NHTW khác thường liên quan đến xuyên biên giới hơn là các lựa chọn thiết kế trong nước. Mức độ và loại hình tham gia cũng khác nhau tùy theo giai đoạn của công việc CBDC. Hầu hết các NHTW chỉ bắt đầu tiếp cận các bên liên quan của họ, đặc biệt là sự tham gia của khu vực tư nhân - khi chuyển từ giai đoạn nghiên cứu sang giai đoạn chứng minh ý tưởng.

Sự phát triển của tiền điện tử đã thúc đẩy các nỗ lực, nghiên cứu, quy định và các công việc liên quan CBDC. Năm 2022 và đầu năm 2023 chứng kiến những bất ổn trên thị trường tiền điện tử. Trong nửa đầu tháng 5/2022, hệ sinh thái tiền điện tử đã bị chấn động do sự đổ vỡ của nhiều loại tiền điện tử khác nhau, bao gồm TerraUSD, Terra’s stablecoin, đồng stablecoin lớn thứ ba vào thời điểm đó. Tháng 11/2022, sàn giao dịch tiền điện tử tập trung FTX sụp đổ và vào tháng 3/2023, Silvergate Bank, Signature Bank và Silicon Valley Bank các ngân hàng phục vụ nhiều nhà cung cấp dịch vụ tiền điện tử, đã nộp đơn xin phá sản. Mặc dù những diễn biến này không có tác động rõ rệt đến thị trường tài chính truyền thống, nhưng chúng đã dẫn đến việc bán tháo nhiều loại tiền điện tử. Từ tháng 4/2022 đến cuối tháng 3/2023, tổng vốn hóa thị trường tiền điện tử đã giảm 46% xuống còn 1,2 nghìn tỷ đô la (từ giá trị cao nhất là hơn 3 nghìn tỷ đô la vào tháng 11/2021). Ngoài ra, tình trạng hỗn loạn đã khiến sự phát triển của thị trường stablecoin bị đình trệ và gần như xóa sổ hoàn toàn các stablecoin không được đảm bảo.

Nếu được sử dụng rộng rãi để thanh toán, các tài sản tiền điện tử bao gồm cả stablecoin có thể tạo thành mối đe dọa đối với sự ổn định tài chính. Để tăng cường và phối hợp các phương pháp quản lý nhằm ngăn chặn rủi ro của chúng đối với hệ thống tài chính, CPMI, IOSCO, FSB và BCBS đã xuất bản hướng dẫn và tiêu chuẩn mới hoặc cập nhật cho stablecoin hoặc các hoạt động và thị trường tiền điện tử một cách rộng rãi hơn. Ngoài ra, 60% NHTW cho biết sự xuất hiện của stablecoin và các tài sản tiền điện tử khác đã đẩy nhanh công việc của họ trên CBDC. Các NHTW này thường chú trọng hơn đến một loạt các động cơ thúc đẩy phát hành CBDC. Đặc biệt, công việc liên quan CBDC bán lẻ và bán buôn của họ được thúc đẩy thường xuyên hơn bởi lý do ổn định tài chính và hiệu quả thanh toán.

Ngoài những nỗ lực tăng cường trong các lĩnh vực quy định về tiền điện tử và CBDC, các NHTW tiếp tục phân tích tác động của stablecoin và các loại tiền điện tử khác. Như những năm trước, khoảng 70% NHTW đang đánh giá tác động ổn định tài chính và tiền tệ của stablecoin. Gần 40% số người được hỏi cho biết NHTW hoặc các tổ chức khác gần đây đã thực hiện một nghiên cứu về việc sử dụng stablecoin và các loại tiền điện tử khác giữa người tiêu dùng hoặc doanh nghiệp. Những nỗ lực này có thể giúp các cơ quan quản lý và hoạch định chính sách giám sát quy mô của thị trường tài sản tiền điện tử và tác động tiềm ẩn của chúng đối với sự ổn định của hệ thống tài chính.

Stablecoin hầu như không được sử dụng để thanh toán bên ngoài thị trường tiền điện tử. Ngoài việc được sử dụng trong tài chính phi tập trung (DeFi) và giao dịch tiền điện tử, stablecoin hầu như không được dùng để thanh toán bên ngoài hệ sinh thái tiền điện tử. Trường hợp chúng được sử dụng theo cách này, thì điều này chủ yếu dành cho kiều hối và thanh toán bán lẻ. Gần 30% NHTW chỉ ra rằng stablecoin được một số nhóm ngách trong phạm vi quyền hạn của họ sử dụng để chuyển tiền, tiếp theo là thanh toán hàng hóa và dịch vụ của người tiêu dùng cũng như quà tặng và quyên góp của người tiêu dùng. Chỉ có 7% và 5% NHTW cho biết các nhóm ngách sử dụng cho các khoản thanh toán bán buôn trong nước và xuyên biên giới.

Kết quả khảo sát cho thấy việc sử dụng các loại tiền điện tử khác để thanh toán tương tự như của stablecoin: tầm thường hoặc giới hạn ở các nhóm thích hợp và chủ yếu để chuyển tiền. Ngoài ra, ngoài việc chuyển tiền, kết quả cho thấy việc sử dụng tiền điện tử tương tự cho thanh toán trong nước so với thanh toán xuyên biên giới. Có sự khác biệt đáng chú ý trong việc sử dụng giữa AE và EMDE. Stablecoin dường như đóng một vai trò tương đối lớn hơn trong chuyển tiền tại AE (36%) so với EMDE (24%). Ngoài ra, các NHTW AE (7%) đã báo cáo việc sử dụng stablecoin cho bán buôn xuyên biên giới trong khu vực pháp lý của họ nhiều hơn so với các NHTW EMDE (4%).

HN (theo BIS)

  • aA
  • Categories:
  • Fintech - Nghiên cứu trao đổi
  • Chuyên đề khác
OTHER NEWS
Triển vọng Fintech toàn cầu: Từ tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng bền vững
3/7/26
Chuyển đổi số ở các ngân hàng thương mại Việt Nam: Thành tựu, thách thức và một số kiến nghị hoàn thiện
2/7/25
Fed đề xuất nới lỏng quy định vốn: Động thái hỗ trợ thị trường trái phiếu Kho bạc
2/6/27
Lộ trình giảm lãi suất trong năm 2025 được mở ra từ Fed
8/6/25
Tăng cường ổn định tài chính nâng cao khả năng chống chịu trong bối cảnh kinh tế hiện nay
8/6/25
ECB cảnh báo nguy cơ suy giảm niềm tin ngân hàng từ tài sản mã hóa
8/6/25
ECB điều chỉnh chính sách trong bối cảnh lạm phát hạ nhiệt
8/6/25
Giới thiệu về công tác xây dựng Bộ pháp điển Việt Nam và hướng dẫn cách thức khai thác, sử dụng Bộ pháp điển
8/6/25
Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt: Vì một nền tài chính vững mạnh
8/6/25
Truyền thông chính sách của NHTW trên mạng xã hội
8/6/25
Showing 1 to 10 of 1071
  • 1
  • 2
  • 3
  • 108
About SBV
  • History
  • Major Responsibilities
  • Management Board
  • Former Governors
CPI
Interest Rate
Money Market Operations
  • Thông tin chào bán tín phiếu NHNN
  • Giấy mời tham gia đấu thầu vàng
  • Open Market Operations
  • Auctions for State Treasury bills
System of Credit Institutions
  • Banks
    • Commercial Banks
      • State-owned Commercial Banks
      • Joint-stock Commercial Banks
      • Wholly Foreign Owned Banks
      • Joint-venture Banks
    • Policy Banks
    • Cooperative Banks
  • Non-Bank Credit Institutions
    • Finance Companies
    • Leasing Companies
    • Other non-bank credit Institutions
  • Micro finance Institutions
  • Foreign Bank Branches
  • Representative Offices
Search Bar
TIN VIDEO
Ngành Ngân hàng nỗ lực hoàn thành mục tiêu năm 2025
Ngành Ngân hàng nỗ lực hoàn thành mục tiêu năm 2025
TIN ẢNH
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
TIN ẢNH
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Calendar Icon LỊCH LÀM VIỆC CỦA BAN LÃNH ĐẠO Microphone Icon CÁC BÀI PHÁT BIỂU Chart Icon CPI Percentage Icon LÃI SUẤT Money Icon DỰ TRỮ BẮT BUỘC Graduation Icon GIÁO DỤC TÀI CHÍNH Newspaper Icon THÔNG CÁO BÁO CHÍ ẤN PHẨM PHÁT HÀNH
Ngân hàng
ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2025-2030 Chuyển đổi số
Danh Bạ Liên Hệ Phản Ánh Kiến Nghị Đường Dây Nóng
© state bank of vietnam portal
Address: 49 Ly Thai To - Hoan Kiem - Hanoi
Webmaster: (84 - 243) 266.9435
Email: thuongtrucweb@sbv.gov.vn rss
NCSC Certification
State Bank hotline: (84 - 243) 936.6306
Information security: phone number: (+84)84.859.5983, email: antt@sbv.gov.vn
IPv6 Ready
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

publications of the banking times

Digital Bankingtimes

logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan

Các ấn phẩm của thời báo ngân hàng

Cổng thông tin điện tử NHNN
Thời báo Ngân Hàng
Tạp chí Ngân hàng

Digital Bankingtimes

Digital Banking Times Logos