Tổng hợp nội dung trả lời kiến nghị của cử tri liên quan đến các giải pháp
của ngành NH để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân
1. Về đề nghị tiếp tục hạ lãi suất huy động làm cơ sở giảm lãi suất cho vay, đồng thời tăng khả năng tiếp cận vốn cho người dân, doanh nghiệp; triển khai các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. (Cử tri tỉnh An Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Hà Nội, Hòa Bình, Kiên Giang, Long An, Tây Ninh, Thanh Hóa, TP Hồ Chí Minh, Thái Nguyên)
Năm 2023, trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 khoảng 6,5% và lạm phát khoảng 4,5% được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14-15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế; điều hành tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế1. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; nhất là các chương trình, chính sách tín dụng ưu đãi lãi suất theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Đến ngày 30/6/2023, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 12,5 triệu tỷ đồng, tăng 4,73% so với cuối năm 2022, tăng 9,36% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh2, lĩnh vực ưu tiên3 theo chủ trương của Chính phủ, góp phần đóng góp vào tăng trưởng GDP cả nước.
Về điều hành lãi suất: NHNN điều chỉnh giảm liên tục 04 lần các mức lãi suất điều hành với mức giảm 0,5-2,0%/năm, trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao, qua đó tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với một số lĩnh vực ưu tiên ở mức 4%/năm, thấp hơn so với mức trần theo quy định của NHNN. Đồng thời, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, làm việc trực tiếp với các TCTD yêu cầu triển khai các biện pháp để giảm lãi suất tiền gửi, tiết giảm chi phí, qua đó tạo dư địa để giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng để vận động sự thống nhất của các TCTD hội viên tiếp tục thực hiện giảm lãi suất cho vay.
Đến cuối tháng 6/2023, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các ngân hàng thương mại (NHTM) giảm khoảng 1,0%/năm so với cuối năm 2022; các NHTM đã chủ động điều chỉnh và triển khai các chương trình/gói tín dụng ưu đãi để giảm lãi suất cho vay với mức giảm khoảng 0,5-3,0%/năm tùy đối tượng khách hàng đối với các khoản vay mới; đồng thời, cam kết giảm lãi suất cho vay khoảng 0,2-2,5%/năm trong 6 tháng cuối năm 2023 tùy đối tượng khách hàng và lĩnh vực. Với tác động của độ trễ chính sách và cam kết giảm lãi suất của các TCTD4, dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.
Bên cạnh các giải pháp điều hành tín dụng và lãi suất, thời gian qua, NHNN đã chủ động triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp cụ thể:
- Ngày 28/6/2023, NHNN đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng, trong đó có bổ sung quy định cho vay bằng phương tiện điện tử, khách hàng vay không phải đến ngân hàng, quy trình thủ tục vay nhanh hơn, thuận tiện hơn.
- Ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 50/NQ-CP và Nghị quyết 59/NQ-CP. Đồng thời, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 23/5/2023 về tăng cường công tác tín dụng và triển khai quy định tại Thông tư 02/2023/TT-NHNN. Lũy kế từ khi triển khai Thông tư 02 đến cuối tháng 6/2023 đã có 29.286 lượt khách hàng được TCTD thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ (đến cuối tháng 6/2023, tổng dư nợ gốc và lãi được cơ cấu là 64.723 tỷ đồng cho 27.283 lượt khách hàng).
- Căn cứ chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, diễn biến, tình hình thực tế thị trường, từ cuối năm 2022 sang đầu năm 2023, NHNN đã có nhiều văn bản chỉ đạo về công tác tín dụng đối với một số lĩnh vực như bất động sản, xăng dầu, nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), hợp tác xã,... Chỉ đạo các NHTM triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng từ nguồn vốn của các NHTM với lãi suất cho vay thấp hơn từ 1,5%-2% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng trên thị trường theo đúng chỉ đạo của Chính phủ đối với chủ đầu tư, người mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ5. Một số TCTD như Agribank, Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HD Saison và Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng Việt Nam thịnh vượng cũng đang đẩy mạnh triển khai chương trình tín dụng tiêu dùng6.
- Phối hợp các Bộ, ngành, địa phương, các Hiệp hội, các doanh nghiệp đẩy mạnh triển khai Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên cả nước, các Hội nghị tín dụng chuyên đề, các buổi làm việc với các cơ quan liên quan để nhận diện các khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp;
- Bên cạnh hoạt động tín dụng thương mại, ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) đã và đang tích cực triển khai 26 chương trình tín dụng chính sách để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng chính đáng và trang trải chi phí sinh hoạt, chi phí việc làm với lãi suất ưu đãi.
- Tăng cường hoạt động truyền thông, phổ biến về cơ chế, chính sách, các chương trình tín dụng bằng nhiều hình thức để người dân, doanh nghiệp hiểu và tiếp cận các chính sách, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình tín dụng đặc thù theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người dân, doanh nghiệp.
2. Về triển khai các các gói hỗ trợ với lãi suất (HTLS) ưu đãi đối với các doanh nghiệp có khả năng phục hồi sản xuất, kinh doanh hoặc các ngành nghề chịu ảnh hưởng sau dịch Covid-19. (Cử tri tỉnh Thái Nguyên)
Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, NHNN đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, tiếp cận vốn, duy trì và mở rộng sản xuất, kinh doanh, cụ thể như sau:
- Trình Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/05/2022 trong khuôn khổ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách Nhà nước đối với khoản vay7 của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Kết quả: Đến cuối tháng 8/2023, doanh số HTLS đạt hơn 169.000 tỷ đồng, dư nợ HTLS đạt gần 57.000 tỷ đồng cho hơn 2.100 khách hàng, số tiền HTLS lũy kế từ đầu chương trình đạt khoảng 781 tỷ đồng.
- Triển khai Chương trình tín dụng 120.000 tỷ đồng từ nguồn vốn của các NHTM với lãi suất cho vay thấp hơn từ 1,5%-2% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng trên thị trường đối với chủ đầu tư, người mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ. Ngày 16/6/2023, BIDV đã ký hợp đồng tín dụng tài trợ 01 dự án nhà ở xã hội tại tỉnh Phú Thọ tham gia chương trình với số tiền cấp tín dụng khoảng 95 tỷ đồng, đến nay đã giải ngân 23,7 tỷ đồng. Agribank cũng đã cấp tín dụng đối với 01 dự án với số tiền cam kết cấp tín dụng là 950 tỷ đồng, dự kiến giải ngân trong Quý III. Bên cạnh đó, các NHTM đang tiếp cận khoảng 16 dự án (Agribank 11 dự án, BIDV 5 dự án).
- Triển khai Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản với quy mô khoảng 15.000 tỷ đồng, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam thấp hơn tối thiểu từ 1%-2%/năm so với mức lãi suất cho vay bình quân cùng kỳ hạn (ngắn hạn; trung, dài hạn) của chính ngân hàng cho vay, thời gian triển khai đến hết 30/6/2024. Đến nay đã có 13 ngân hàng thương mại đã đăng ký tham gia Chương trình và đã thực hiện cho vay với doanh số giải ngân đạt gần 1.500 tỷ đồng cho gần 500 lượt khách hàng vay vốn.
- Các TCTD cũng đã chủ động chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp về các chương trình tín dụng tiêu dùng như: (i) Agribank tiếp tục đẩy mạnh triển khai chương trình tín dụng tiêu dùng 5.000 tỷ đồng cho khách hàng, giải ngân ngay trong ngày với số tiền cho vay tối đa 30 triệu đồng, không cần tài sản thế chấp. Đến nay, Agribank đã cho 834 nghìn lượt khách hàng vay vốn, doanh số cho vay đạt 76.338 tỷ đồng, dư nợ đạt trên 1.600 tỷ đồng với gần 82 nghìn khách hàng còn dư nợ; (ii) Hai công ty tài chính (Công ty Tài chính TNHH HD Saison - HD Saison) và Công ty Tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam thịnh vượng - FE Credit) đã cam kết dành 20.000 tỷ đồng (10.000 tỷ đồng mỗi công ty) để cho vay đối với công nhân lao động với lãi suất ưu đãi bằng 50% lãi suất các công ty này đang cho vay trên thị trường (khoảng 15-25%). Đến nay, HDSaison và FECredit đã giải ngân được hơn 7.300 tỷ đồng.
Bên cạnh hoạt động tín dụng triển khai tại các ngân hàng thương mại, NHCSXH cũng đã và đang thực hiện nhiều chương trình tín dụng chính sách góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động để tiếp tục sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm như: (i) Chính sách cho vay giải quyết việc làm theo quy định tại Nghị định 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/20158 đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh và người lao động để tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm; (ii) Chính sách cho vay thương nhân (doanh nghiệp, cá nhân), hộ gia đình hoạt động thương mại tại vùng khó khăn theo Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 08/7/2009, Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/20079.
Như vậy, ngành Ngân hàng đã và đang rất tích cực triển khai nhiều giải pháp về lãi suất, tín dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn ngân hàng.
3. Về giải pháp giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ tiếp cận tín dụng. (Cử tri tỉnh Bình Dương)
Bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, NHNN đã ban hành, triển khai nhiều chính sách về tiền tệ, tín dụng và triển khai đồng bộ các chương trình, giải pháp tháo gỡ khó khăn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhất là các DNNVV tiếp cận vốn, như:
- Về điều hành lãi suất như đã nêu tại mục 1.
- Trình cấp có thẩm quyền/theo thẩm quyền ban hành và tổ chức triển khai các chương trình tín dụng đặc thù đối với một số ngành/lĩnh vực với nhiều cơ chế ưu đãi về lãi suất, tài sản bảo đảm, cơ chế xử lý nợ đặc thù10; hướng dẫn, chỉ đạo các TCTD phối hợp với Quỹ bảo lãnh tín dụng trong cho vay DNNVV có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương11 và Quỹ Phát triển DNNVV để cho vay DNNVV từ nguồn vốn của Quỹ Phát triển DNNVV.
- Tổ chức triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Ngoài hoạt động tín dụng triển khai tại các TCTD, NHCSXH đã và đang triển khai nhiều chính sách cho vay ưu đãi lãi suất đối với DNNVV như: hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn 0% để trả lương ngừng việc cho người lao động do ảnh hưởng dịch Covid-19; cho vay đối với doanh nghiệp tại vùng khó khăn; cho vay lãi suất ưu đãi doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số; cho vay hỗ trợ lãi suất 2% từ ngân sách Nhà nước theo chương trình phục hồi và phát triển kinh tế theo Nghị định 36/2022/NĐ-CP, cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị theo Nghị định 28/2022/NĐ-CP12…
Đến cuối tháng 6/2023, dư nợ cho vay doanh nghiệp đạt trên 51% tổng dư nợ nền kinh tế, trong đó tín dụng đối với DNNVV (đa phần là các doanh nghiệp tư nhân) đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, tăng hơn 4,2% so với cuối năm 2022, chiếm 18,24% tổng dư nợ nền kinh tế.
Như vậy có thể thấy các chính sách tín dụng, lãi suất đối với DNNVV đang được ngành Ngân hàng triển khai khá đầy đủ qua nhiều kênh tín dụng thương mại tại các NHTM, tín dụng ưu đãi tại NHCSXH và tín dụng tại các ngân hàng có bảo lãnh của các Quỹ bảo lãnh DNNVV.
Việc nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng tạo điều kiện cho DNNVV, doanh nghiệp siêu nhỏ tiếp cận vốn tín dụng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng vì hệ thống ngân hàng là kênh dẫn vốn chủ yếu phục vụ sản xuất kinh doanh, đóng vai trò huyết mạch của nền kinh tế. Việc nâng cao chất lượng tín dụng, giữ ổn định an toàn hệ thống ngân hàng là vô cùng quan trọng nhằm duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Do vậy, để tăng khả năng tiếp cận vốn, ngoài giải pháp, chính sách từ ngành ngân hàng, bản thân doanh nghiệp cần cơ cấu lại hoạt động, nâng cao khả năng tài chính, xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo niềm tin để các TCTD yên tâm cấp tín dụng. Đồng thời, cần có sự phối hợp đồng bộ từ các chính sách khác về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh được khơi thông, phương án kinh doanh khả thi, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
4. Về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng. (Cử tri tỉnh Long An, Kiên Giang)
NHNN đã ban hành: (i) quy định cho phép các TCTD được cho vay bằng ngoại tệ đối với các nhu cầu vốn ngắn hạn thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay13; (ii) văn bản hướng dẫn ngân hàng thương mại triển khai Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản14 với quy mô khoảng 15.000 tỷ đồng; lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam thấp hơn tối thiểu từ 1%-2%/năm so với mức lãi suất cho vay bình quân cùng kỳ hạn (ngắn hạn; trung, dài hạn) của chính ngân hàng cho vay; và thời gian triển khai đến hết 30/6/2024.
5. Tháo gỡ khó khăn khi triển khai Nghị định 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. (Cử tri tỉnh Bình Dương, Quảng Ngãi)
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội, NHNN đã phối hợp các cơ quan có liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2022/NĐ-CP; đồng thời ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN ngày 20/5/2022 hướng dẫn NHTM triển khai thực hiện. Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư 03/2022/TT-NHNN không quy định thêm các điều kiện cho vay so với các quy định thông thường. Do đó, khi khách hàng thuộc đối tượng quy định tại Nghị định 31/2022/NĐ-CP và đáp ứng điều kiện vay vốn của TCTD sẽ được hỗ trợ lãi suất (HTLS) theo quy định.
Từ khi chính sách được ban hành tới nay, ngành Ngân hàng đã tích cực phối hợp các bộ, ngành triển khai nhiều giải pháp đồng bộ với tinh thần quyết liệt, khẩn trương để các đối tượng doanh nghiệp, Hợp tác xã, hộ kinh doanh sớm được tiếp cận chính sách như: tổ chức nhiều Hội nghị, cuộc họp, buổi làm việc và ban hành văn bản chỉ đạo, đôn đốc; đẩy mạnh công tác truyền thông, kết nối giữa ngân hàng với khách hàng; thành lập đường dây nóng để nắm bắt thực tế phản ánh của người dân, doanh nghiệp; tổ chức các Đoàn công tác liên bộ ngành tại các địa phương để khảo sát tình hình thực tế, kịp thời đôn đốc, giải đáp thắc mắc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho NHTM và khách hàng trong thực hiện; đồng thời, chỉ đạo các NHTM đã chủ động tiếp cận khách hàng, giúp cho khách hàng hiểu rõ, đầy đủ về chính sách và cách thức để tiếp cận chính sách HTLS.
Tuy nhiên, kết quả hỗ trợ lãi suất còn thấp, chưa như kỳ vọng (số tiền HTLS lũy kế từ đầu chương trình đến cuối tháng 6/2023 đạt khoảng 590 tỷ đồng). Những khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến kết quả HTLS, đã được NHNN, các NHTM và các Bộ ngành nhận diện và đã được NHNN tổng hợp đầy đủ tại các Tờ trình Báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ15.
Trong thời gian tới, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục thực hiện chính sách với quyết tâm cao nhất, tiếp tục công tác truyền thông, tuyên truyền đẩy mạnh triển khai HTLS để các đối tượng quan tâm được tiếp cận chính sách hỗ trợ từ ngân sách. Đồng thời, sẽ tiếp tục chỉ đạo các NHTM dành nguồn lực của chính các ngân hàng để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng và tích cực triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp, nền kinh tế theo đúng chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
6. Đề nghị ngành ngân hàng có các chính sách ưu đãi, thu hút người dân của địa phương được vay vốn với lãi suất thấp để phát triển sản xuất, mở rộng quy mô, lĩnh vực và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác. (Cử tri tỉnh Hòa Bình)
Theo quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của TCTD thì hợp tác xã, tổ hợp tác được được bình đẳng như các đối tượng khác trong tiếp cận vốn tín dụng. Đồng thời, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều chính sách ưu đãi hỗ trợ hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ dân tham gia các hợp tác xã, tổ hợp tác tiếp cận nguồn vốn để thực hiện sản xuất, kinh doanh như:
- Các giải pháp về điều chỉnh giảm lãi suất; Ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 hướng dẫn các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. (như đã trả lời tại điểm 1 nêu trên).
- Triển khai nhiều chính sách tín dụng đặc thù trong đó có đối tượng thụ hưởng là hợp tác xã, tổ hợp tác, người dân tham gia các hợp tác xã, tổ hợp tác: Chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP; Chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất 2% từ NSNN theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP.
- Riêng đối với nhiệm vụ tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT) trong giai đoạn mới, NHNN đã ban hành Quyết định16 về kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết17 Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. Theo đó NHNN đã chỉ đạo các TCTD:
+ Cân đối vốn, tập trung tín dụng cho các tổ chức KTTT hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, các mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị ứng dụng công nghệ cao, chuỗi giá trị liên kết đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Thường xuyên nghiên cứu, phát triển đa dạng sản phẩm tín dụng ngân hàng; rà soát, cải tiến, đổi mới quy trình, thủ tục, điều kiện cấp tín dụng phù hợp với yêu cầu và thực tiễn hoạt động của các tổ chức KTTT để từng bước mở rộng và tăng cường hỗ trợ vốn cũng như khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
Đến cuối tháng 6/2023 kết quả dư nợ cho vay đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đạt 6.232 tỷ đồng.
Như vậy, ngành Ngân hàng đã chủ động triển khai nhiều giải pháp, chính sách ưu đãi hỗ trợ người dân, hợp tác xã, tổ hợp tác tiếp cận nguồn vốn tín dụng để phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, tổ hợp tác.
7. Về hướng dẫn cụ thể việc đánh giá một số tiêu chí tại khoản 4, Điều 3 Nghị định số 31/2022/NĐ-CP: “Khách hàng có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi theo đánh giá nội bộ của ngân hàng thương mại…” để thống nhất thực hiện trong toàn hệ thống, vì hiện nay các tiêu chí đánh giá nội bộ về khả năng trả nợ, khả năng phục hồi của khách hàng tại từng chi nhánh ngân hàng thương mại chưa đồng bộ. (Cử tri tỉnh Đồng Tháp)
Sau khi chính sách hỗ trợ lãi suất (HTLS) được ban hành, NHNN và các bộ có liên quan đã văn bản hướng dẫn, giải đáp các vấn đề phát sinh để tạo thuận lợi cho các ngân hàng thương mại (NHTM) và khách hàng trong quá trình triển khai, thực hiện. Riêng đối với tiêu chí, nguyên tắc về việc đánh giá khách hàng“có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi theo đánh giá nội bộ của ngân hàng thương mại” được hướng dẫn trên cơ sở quy định tại điểm 1.2.c khoản 1, Điều 3 Nghị quyết 43/2022/QH15 “Hỗ trợ lãi suất (2%/năm) tối đa 40 nghìn tỷ đồng thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại cho một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi…”. Quy định này nhằm trao quyền chủ động và tạo sự linh hoạt cho các NHTM trong triển khai chính sách.
Tuy nhiên, thực tế quá trình thực hiện và khảo sát tại địa phương cho thấy, mặc dù có khả năng trả nợ, bản thân khách hàng cũng không dám khẳng định “có khả năng phục hồi” (thường được thể hiện thông qua các tiêu chí định lượng như: doanh thu/sản lượng/lợi nhuận tăng hoặc các tiêu chí định tính như đánh giá diễn biến, chiều hướng kinh doanh của khách hàng) vì đánh giá này rất khó, đặc biệt bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước đã, đang và sẽ tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn, thách thức và xuất hiện thêm nhiều yếu tố bất lợi hơn so với thời điểm ban hành Nghị quyết 43/2022/QH15. Do đó, trường hợp khẳng định hoặc đánh giá các tiêu chí doanh thu, sản lượng, lợi nhuận tăng nhưng thực tế do tác động của nhiều yếu tố bất định dẫn tới các chỉ số này không tăng thì các NHTM và khách hàng e ngại sẽ bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra sau này đánh giá trục lợi chính sách. Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu/lợi nhuận trong giai đoạn dịch cao hơn hiện tại nên rất khó để đánh giá đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.
Đây là một trong các khó khăn vướng mắc xuất phát từ thực tế khách quan do các tác động bất lợi của nền kinh tế. Trường hợp sửa tiêu chí này cần báo cáo Quốc hội sửa đổi Nghị quyết 43/2022/QH15, trong khi thời gian triển khai chính sách sắp kết thúc và kết quả HTLS thực tế có thể vẫn thấp do nhiều nguyên nhân khác và phụ thuộc rất lớn vào tâm lý e ngại công tác thanh, kiểm tra của khách hàng và cân nhắc giữa lợi ích từ HTLS 2% và chi phí bỏ ra khi nhận HTLS như theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Các nội dung nêu trên đã được NHNN, các NHTM và các Bộ ngành nhận diện và đã được NHNN tổng hợp đầy đủ tại các Tờ trình Báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ18.
Trong thời gian tới, NHNN và ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục thực hiện chính sách với quyết tâm cao nhất, tiếp tục công tác truyền thông, tuyên truyền đẩy mạnh triển khai HTLS để các đối tượng quan tâm được tiếp cận chính sách hỗ trợ từ ngân sách. Đồng thời, sẽ tiếp tục chỉ đạo các NHTM dành nguồn lực của chính các ngân hàng để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng và tích cực triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp, nền kinh tế theo đúng chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
8. Đề nghị NHNN trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung đối tượng là "nhóm ngành, nghề dệt may, xăng dầu, phân bón, thương mại" được hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh vào khoản 2 Điều 2 Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ. (Cử tri tỉnh Đồng Tháp)
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội và Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ, NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/05/2022.
Theo đó, các đối tượng, ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất (HTLS) tại Nghị định số 31/2022/NĐ-CP được cụ thể hóa từ Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị quyết 11/NQ-CP (Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối tham mưu, đề xuất về đối tượng được hỗ trợ lãi suất), trong đó nhóm ngành dệt may, da giầy, sản xuất phân bón, xăng dầu nằm trong nhóm ngành chế biến chế tạo, thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2 Nghị định 31/2022/NĐ-CP. Riêng đối với nhóm ngành, nghề bán buôn, bán lẻ xăng dầu nằm trong “ngành bán buôn, bán lẻ” thuộc nhóm ngành, nghề thương mại có phạm vi rất rộng, chưa thuộc đối tượng quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Nghị quyết số 11/NQ-CP.
Trong quá trình triển khai chính sách HTLS, NHNN và các Bộ, ngành liên quan đã kịp thời nắm bắt, nhận diện các khó khăn, vướng mắc và có nhiều tờ trình báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ19. Chính phủ đã báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và trình Quốc hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng)20: (i) Cho phép tiếp tục triển khai chính sách HTLS, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo NHNN phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện chính sách, tiếp tục truyền thông, tuyên truyền đẩy mạnh triển khai chính sách HTLS để tạo điều kiện thụ hưởng chính sách cho các đối tượng quan tâm; (ii) Đối với số vốn không giải ngân hết của chính sách sau khi kết thúc thời gian giải ngân kế hoạch năm 2022 và 2023, trình Quốc hội hủy dự toán, kế hoạch vốn, không huy động nguồn lực, đồng thời không làm tăng bội chi tương ứng số vốn này.
Hiện nay, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục phối hợp các bộ, cơ quan liên quan thực hiện chính sách với quyết tâm cao nhất để đẩy mạnh triển khai chính sách HTLS đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Bên cạnh chính sách HTLS nêu trên, hiện nay, NHNN đã và đang triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho người dân, doanh nghiệp thuộc tất cả các ngành, lĩnh vực. Trong đó, tích cực triển khai các giải pháp giảm mặt bằng lãi suất cho vay, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp (liên tục điều chỉnh giảm 04 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm từ 0,5-2,0%/năm, chỉ đạo các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí,...); đến nay, mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 1,7%/năm so với cuối năm 2022. Đồng thời, NHNN tiếp tục đẩy mạnh triển khai các giải pháp để tăng khả năng hấp thụ vốn của người dân, doanh nghiệp như: Điều hành tín dụng phù hợp, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế; Rà soát, hoàn thiện thể chế pháp luật trong hoạt động cấp tín dụng phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng; Chỉ đạo các TCTD tiếp tục đơn giản hóa các quy trình cho vay; Triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ; Đẩy mạnh triển khai chương trình kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp trên toàn quốc; tổ chức các hội nghị chuyên đề, hội nghị vùng nhằm nắm bắt các khó khăn vướng mắc liên quan đến việc tiếp cận vốn vay ngân hàng để kịp thời xử lý, tháo gỡ,...
9. Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị định 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, tuy nhiên việc triển khai chậm trễ, không đạt yêu cầu, một phần nguyên nhân là do vướng ở khâu điều hành thực hiện và các quy định liên quan đến nhiều bộ, ngành. Kiến nghị NHNN có các giải pháp chỉ đạo, điều hành, một mặt hạ chuẩn cho vay, đồng thời gắn trách nhiệm với các Ngân hàng địa phương vì Ngân hàng là bên cho vay nhưng một số Ngân hàng có tâm lý sợ sai nên việc triển khai còn nhiều vướng mắc, không đạt yêu cầu về tiến độ. (Cử tri tỉnh Quảng Ninh)
a. Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 43/2022/QH15, NHNN đã phối hợp các cơ quan có liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; đồng thời ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN ngày 20/5/2022 hướng dẫn ngân hàng thương mại (NHTM) triển khai thực hiện. Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư 03/2022/TT-NHNN không quy định thêm các điều kiện cho vay so với các quy định thông thường21. Do đó, khi khách hàng thuộc đối tượng, đáp ứng điều kiện vay vốn và có nhu cầu hỗ trợ lãi suất (HTLS) sẽ được hỗ trợ theo quy định.
Từ khi chính sách được ban hành tới nay, NHNN và ngành Ngân hàng đã tích cực phối hợp các bộ, ngành liên quan triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để các đối tượng doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh sớm được tiếp cận chính sách thông qua:
(i) Ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, trả lời các vấn đề phát sinh, chỉ đạo các NHTM đẩy mạnh triển khai thực hiện. Tại các văn bản này, Thống đốc NHNN yêu cầu các đơn vị trong toàn ngành Ngân hàng xác định đây là chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước, là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, cần khẩn trương, quyết liệt, kịp thời triển khai thực hiện với tinh thần, trách nhiệm cao nhất để góp phần tích cực vào quá trình phục hồi, phát triển kinh tế; Chủ động triển khai chính sách từ trung ương đến địa phương, từ NHNN đến các NHTM, từ hội sở chính đến chi nhánh, trong quá trình triển khai có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời giữa NHNN, các bộ ngành có liên quan và các NHTM để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách.
(ii) Tổ chức các Hội nghị tuyên truyền, phổ biến, giải đáp chính sách; truyền thông một cách rộng rãi bằng nhiều hình thức: Truyền hình, báo chí Trung ương và địa phương, tổ chức Hội nghị kết nối ngân hàng – doanh nghiệp, Hội nghị phổ biến trực tiếp đến đối tượng thụ hưởng và các Hiệp hội ngành nghề, Hiệp hội doanh nghiệp... Đồng thời, về phía các NHTM cũng đã chủ động tiếp cận khách hàng, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, giúp cho các khách hàng hiểu rõ, đầy đủ về chính sách và cách thức để tiếp cận chính sách HTLS từ NHTM.
(iii) Ngoài ra, để nắm bắt thực tế triển khai, các Đoàn công tác liên bộ, ngành (gồm NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Xây dựng) đã khảo sát tình hình thực hiện chính sách HTLS tại một số địa phương, qua đó kịp thời đôn đốc, giải đáp thắc mắc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho NHTM và khách hàng trong thực hiện.
Kết quả và khó khăn, vướng mắc:
Đến cuối tháng 8/2023, doanh số HTLS đạt hơn 169.000 tỷ đồng, dư nợ HTLS đạt gần 57.000 tỷ đồng, số tiền HTLS lũy kế từ đầu chương trình đạt khoảng 781 tỷ đồng cho hơn 2.100 khách hàng.
Thực tế triển khai cho thấy, chưa có một chương trình nào được triển khai khẩn trương, quyết liệt như chính sách HTLS theo Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị định 31/2022/NĐ-CP. Tuy nhiên, kết quả HTLS còn thấp, chưa như kỳ vọng là do một số nguyên nhân đã được nhận diện qua quá trình triển khai thực tế và cũng được các địa phương, doanh nghiệp thừa nhận như:
- Khách hàng đủ điều kiện nhưng từ chối nhận HTLS, chủ yếu là do tâm lý e ngại thanh tra, kiểm tra của khách hàng (nhất là các doanh nghiệp), cân nhắc giữa lợi ích từ HTLS 2% và chi phí bỏ ra khi nhận HTLS (theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Ngoài ra, khách hàng cũng lo ngại trong trường hợp sau này nếu bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền HTLS thì rất khó xử lý vì lúc đó doanh nghiệp/khách hàng đã hạch toán lợi nhuận/chia cổ tức cho cổ đông. Trên thực tế, một số khách hàng đã được nhận HTLS, song hiện đã chủ động hoàn trả NHTM toàn bộ số tiền lãi đã được hỗ trợ.
- NHTM và khách hàng khó khăn trong đánh giá việc đáp ứng quy định “có khả năng phục hồi” tại Nghị quyết 43/2022/QH15 và khoản 4 Điều 3 Nghị định 31/2022/NĐ-CP. Cụ thể, qua báo cáo và khảo sát thực tế từ NHTM và các khách hàng, bản thân khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ, song cũng không dám khẳng định “có khả năng phục hồi” (thường được thể hiện thông qua các tiêu chí định lượng như: doanh thu/sản lượng/lợi nhuận tăng hoặc các tiêu chí định tính như đánh giá diễn biến, chiều hướng kinh doanh của khách hàng) vì đánh giá này là rất khó trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt điều kiện kinh tế thế giới đang có nhiều bất ổn trong khi nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào kinh tế quốc tế. Trường hợp khẳng định hoặc đánh giá các tiêu chí doanh thu, sản lượng, lợi nhuận tăng nhưng thực tế do tác động của nhiều yếu tố bất định dẫn tới các chỉ số này không tăng thì các NHTM và khách hàng e ngại sẽ bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra sau này đánh giá trục lợi chính sách. Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu/lợi nhuận trong giai đoạn dịch cao hơn hiện tại nên rất khó để đánh giá đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.
- Nhiều hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vay vốn tại các NHTM, tuy nhiên không có đăng ký hộ kinh doanh theo quy định nên không thuộc đối tượng được hỗ trợ (như Agribank có khoản 50% dư nợ khách hàng là hộ sản xuất, kinh doanh không có đăng ký kinh doanh).
- Tâm lý e ngại của các NHTM khi triển khai thực hiện chính sách này do thực tế hiện vẫn còn một số chương trình HTLS chưa được quyết toán số tiền mà các NHTM đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng. Bên cạnh đó, NHTM cũng lo ngại trong trường hợp nếu phải thu hồi số tiền HTLS đã hỗ trợ khách hàng nhưng khách hàng đã tất toán khoản vay, không còn quan hệ với NHTM thì khó thu hồi số tiền này.
- Một số nguyên nhân khác như: khách hàng xuất khẩu lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ sẽ không thuộc đối tượng được HTLS; khó khăn trong bóc tách chi phí vay vốn đa ngành nghề; khách hàng có dư nợ hiện hữu thuộc ngành được HTLS nhưng lại đang quá hạn nên tạm thời chưa được xem xét HTLS theo quy định,…
- Ngoài ra, trong thời gian đầu triển khai chính sách (năm 2022), tình hình kinh tế - xã hội nói chung và tình hình hoạt động kinh doanh của các đối tượng, ngành, nghề được HTLS nói riêng đã có nhiều biến chuyển so với bối cảnh cơ sở của việc ban hành Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị định 31/2022/NĐ-CP (theo Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2022: tăng trưởng kinh tế năm 2022 phục hồi nhanh, đạt 8,02%, trong đó, cả 3 khu vực đều phục hồi, phát triển tốt, thu ngân sách nhà nước vượt 27,76% dự toán, xuất khẩu tăng 10,6%...), nhiều doanh nghiệp trong giai đoạn này đã trở lại hoạt động bình thường sau dịch nên nhu cầu hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách.
Đối với các khó khăn, vướng mắc nêu trên, NHNN đã kịp thời tổng hợp, đánh giá và có nhiều Tờ trình Báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ (từ tháng 11/2022)22 và đề xuất giải pháp trong thời gian còn lại triển khai chính sách.
Tại Thông báo số 316/TB-VPCP ngày 09/08/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chỉ đạo NHNN chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục thực hiện quyết liệt và thúc đẩy triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong thời gian tới, NHNN và ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục phối hợp các bộ, cơ quan liên quan thực hiện chính sách với quyết tâm cao nhất, tiếp tục công tác truyền thông, tuyên truyền đẩy mạnh triển khai HTLS để các đối tượng quan tâm được tiếp cận chính sách hỗ trợ từ ngân sách; tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan tạo thuận lợi và đẩy nhanh quá trình thanh toán, quyết toán HTLS; kịp thời truyền tải thông tin tới các bộ, cơ quan liên quan để phối hợp tháo gỡ các vướng mắc phát sinh thuộc thẩm quyền và báo cáo các cấp những vấn đề vượt thẩm quyền. Đồng thời, sẽ tiếp tục chỉ đạo các NHTM dành nguồn lực của chính các ngân hàng để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng và tích cực triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp, nền kinh tế theo đúng chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
b. Về đề nghị hạ chuẩn cho vay:
Theo quy định tại Điều 7, Luật Các TCTD: “1. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ khác nếu thấy không đủ điều kiện, không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật”. Đồng thời, theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (đã sửa đổi, bổ sung), hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng được thực hiện theo thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng, phù hợp với quy định của pháp luật; TCTD xem xét, quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện vay vốn. Như vậy, hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận; khách hàng vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp, có phương án sử dụng vốn khả thi, có khả năng tài chính để trả nợ; TCTD quyết định xem xét cho vay phù hợp tình hình hoạt động và khẩu vị rủi ro của TCTD.
Các giải pháp đặc thù ngành Ngân hàng triển khai thời gian qua là nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ. Để tạo thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, NHNN đã và đang thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: (i) sẵn sàng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, liên tiếp điều chỉnh giảm các loại lãi suất điều hành, thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ... sẽ góp phần trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, kéo dài thời gian vay và trả nợ ngân hàng, tạo điều kiện tiếp tục quay vòng vốn và tiếp cận vốn vay mới; (ii) chỉ đạo TCTD trong quá trình xem xét cho vay chủ động rà soát, đơn giản hóa và rút ngắn quy trình, thủ tục vay vốn, nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng nhằm tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; (iii) triển khai mạnh mẽ, sâu rộng Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng...
Tuy nhiên, để tăng khả năng tiếp cận vốn, ngoài giải pháp, chính sách từ phía ngành ngân hàng, bản thân doanh nghiệp cần cơ cấu lại hoạt động, nâng cao khả năng tài chính, xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo niềm tin để các TCTD yên tâm cấp tín dụng...
Như vậy, ngành Ngân hàng đã và đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Vấn đề quan trọng hiện nay là thúc đẩy cầu tín dụng từ nền kinh tế trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm; do đó, ngoài những giải pháp từ ngành Ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ từ các chính sách khác về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ.
10. Đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay vốn của người dân (Cử tri tỉnh An Giang, Long An, TP.Hồ Chí Minh)
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận được nhiều hơn nguồn vốn tín dụng ngân hàng, đồng thời, thực hiện chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, thời gian qua NHNN đã chủ động ban hành nhiều văn bản, quyết liệt chỉ đạo các TCTD thực hiện đồng bộ các giải pháp tháo gỡ vướng mắc, khó khăn liên quan đến điều kiện và thủ tục vay vốn theo hướng đơn giản, thông thoáng, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn vốn vay và phù hợp với quy định của pháp luật. Gần đây, NHNN đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng; trong đó có bổ sung quy định cho vay bằng phương tiện điện tử, khách hàng vay không phải đến ngân hàng, quy trình thủ tục vay nhanh hơn, thuận tiện hơn.
Đến nay, các TCTD đã có nhiều đổi mới trong việc xây dựng quy trình cho vay cũng như nâng cao khả năng thẩm định để rút ngắn thời gian giải quyết cho vay; đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn; đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng ứng dụng công nghệ hiện đại, đa dịch vụ. Ngoài ra, đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, các TCTD đã đẩy mạnh phát triển các sản phẩm tín dụng, hình thức cấp tín dụng (như cho vay lưu vụ, cho vay thông qua các tổ, nhóm của tổ chức chính trị xã hội…) với quy trình thủ tục ngày càng đơn giản để tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp thuận tiện trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
Tuy nhiên, đối với các thủ tục liên quan đến hoạt động cho vay thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác, được điều chỉnh bởi những quy định khác của pháp luật như: việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gắn liền trên đất, đăng ký giao dịch bảo đảm, kiểm toán báo cáo tài chính… cần có sự phối hợp chỉ đạo từ các Bộ, ngành, địa phương, để tạo điều kiện cho các TCTD rút ngắn thời gian xem xét, quyết định cho vay.
11. Về đề nghị NHNN có chính sách để các ngân hàng, nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kéo dài thời gian cho vay vốn để khách hàng an tâm sản xuất. (Cử tri tỉnh Bến Tre)
Theo quy định tại Điều 28 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của NHNN về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (đã sửa đổi, bổ sung), TCTD và khách hàng thỏa thuận về thời hạn cho vay căn cứ vào chu kỳ hoạt động kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn, khả năng trả nợ của khách hàng, nguồn vốn cho vay và thời gian hoạt động còn lại của TCTD. Trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay, TCTD xem xét chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả nợ/kéo dài thời gian trả nợ) trên cơ sở đề nghị của khách hàng, khả năng tài chính của TCTD và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
Bên cạnh đó, để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng trong bối cảnh biến động kinh tế trong nước và tình hình thế giới hiện nay, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ23, NHNN đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Việc cho phép TCTD cơ cấu lại nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng gặp khó khăn không có khả năng trả nợ đúng hạn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, kéo dài thời gian trả nợ mà không bị chuyển nhóm nợ xấu. Qua đó, khách hàng có điều kiện được tiếp cận các khoản vay mới phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng thời, khách hàng có nguồn tài chính để tìm kiếm việc làm, nguồn thu nhập mới để trả nợ vay tại các TCTD. Đến ngày 31/7/2023, lũy kế tổng giá trị nợ (gốc và lãi) được cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ là 95.937 tỷ đồng, với 96.875 lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Như vậy, NHNN đã ban hành đầy đủ quy định và chính sách để tạo điều kiện cho các TCTD có thể cho vay khách hàng với thời hạn cho vay phù hợp, cũng như hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn yên tâm sản xuất. Khách hàng có kiến nghị về thời hạn cho vay có thể làm việc trực tiếp với TCTD cho vay để được xem xét xử lý theo quy định.
1 Ngày 10/7/2023, NHNN đã điều chỉnh tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2023 cho các TCTD với mức giao toàn hệ thống khoảng 14%.
2 Đến cuối tháng 6/2023, dư nợ tín dụng đối với ngành nông-lâm-thủy sản, công nghiệp-xây dựng, thương mại-dịch vụ lần lượt tăng 2,47%, tăng 4,76%, tăng 4,96% so với cuối năm 2022; tương ứng chiếm 7,31%, 25,95% và 66,72% tổng dư nợ nền kinh tế.
3 Đến cuối tháng 6/2023, tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tăng 3,42%, chiếm 24,45% dư nợ nền kinh tế; Doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng khoảng 4,21%, chiếm 18,24%; Xuất khẩu tăng khoảng 15,08%, chiếm 2,66%; Tín dụng đối với khu vực công nghiệp hỗ trợ tăng 13,58%, chiếm 2,69%; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 10,69%, chiếm 0,34%.
4 NH Vietcombank cam kết giảm đến 0,5%/năm cho toàn bộ khoản vay của khách hàng cá nhân và doanh nghiệp, NH Agribank giảm tối thiếu 0,5%/năm so với lãi suất đang áp dụng đối với dư nợ trung dài hạn VND hiện hữu, BIDV: Kể từ 01/06/2023, giảm lãi suất cho vay tới 0,5%/năm so với lãi suất hiện hành đối với các khoản vay trung và dài hạn hiện hữu và chưa được áp dụng lãi suất cạnh tranh trước đó; NH Hàng Hải: tiếp tục giảm lãi suất cho vay thêm 1%/năm so với lãi suất hiện hành dành cho các khách hàng cá nhân đang vay vốn đến 31/12/2023…
5 Ngày 16/6/2023, BIDV đã ký hợp đồng tín dụng tài trợ 01 dự án nhà ở xã hội tại tỉnh Phú Thọ tham gia chương trình với số tiền cấp tín dụng khoảng 95 tỷ đồng và đã giải ngân 20,5 tỷ đồng. Agribank cũng đã cấp tín dụng đối với 01 dự án với số tiền cam kết cấp tín dụng là 950 tỷ đồng, dự kiến giải ngân trong Quý III. Bên cạnh đó, các NHTM đang tiếp cận khoảng 16 dự án (Agribank 11 dự án, BIDV 5 dự án).
6 Agribank triển khai chương trình tín dụng tiêu dùng 5.000 tỷ đồng cho khách hàng, giải ngân ngay trong ngày với số tiền cho vay tối đa 30 triệu đồng, không cần tài sản thế chấp; Công ty Tài chính TNHH HD Saison và Công ty Tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam thịnh vượng triển khai gói tài chính tiêu dùng lên tới 20.000 tỷ đồng cho vay công nhân lao động với lãi suất ưu đãi.
7 Hỗ trợ 2% lãi suất (tối đa 40.000 tỷ đồng) từ NSNN trong thời gian 02 năm 2022 và 2023.
8 sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019.
9 sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 17/2023/QĐ-TTg ngày 05/6/2023.
10 Chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định 55/2015/NĐ-CP, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP; Chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch; Chính sách cho vay hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp; Chương trình hỗ trợ lãi suất từ ngân sách Nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/05/2022; Các Thông tư hướng dẫn TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid – 19.
11 Thông tư số 45/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018.
12 Nghị định 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030, giai đoạn 1: từ năm 2021 đến năm 2025.
13 Thông tư 42/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 sửa đổi, bổ sung Thông tư 24/2015/TT-NHNN.
14 Công văn số 5631/NHNN-TD ngày 14/7/223.
15 Tờ trình số 119/TTr-NHNN ngày 11/11/2022; Tờ trình 151/TTr-NHNN ngày 20/12/2022; Tờ trình số 29/TTr-NHNN ngày 20/03/2023; Tờ trình 61/TTr-NHNN ngày 28/4/2023; Tờ trình 77/TTr-NHNN ngày 28/5/2023, Tờ trình 87/TTr-NHNN ngày 09/06/2023, Tờ trình 89/TTr-NHNN ngày 13/06/2023.
16 Quyết định số 319/QĐ-NHNN ngày 14/3/2023.
17 Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 02/2/2023 của Chính phủ.
18 Tờ trình số 119/TTr-NHNN ngày 11/11/2022; Tờ trình 151/TTr-NHNN ngày 20/12/2022; Tờ trình số 29/TTr-NHNN ngày 20/03/2023; Tờ trình 61/TTr-NHNN ngày 28/4/2023; Tờ trình 77/TTr-NHNN ngày 28/5/2023, Tờ trình 87/TTr-NHNN ngày 09/06/2023, Tờ trình 89/TTr-NHNN ngày 13/06/2023.
19 Tờ trình số 119/TTr-NHNN ngày 11/11/2022; Tờ trình 151/TTr-NHNN ngày 20/12/2022; Tờ trình số 29/TTr-NHNN ngày 20/03/2023; Tờ trình 61/TTr-NHNN ngày 28/4/2023; Tờ trình 77/TTr-NHNN ngày 28/5/2023; Tờ trình số 85/TTr-NHNN ngày 09/06/2023 và Tờ trình số 87/TTr-NHNN ngày 13/06/2023; Tờ trình số 89/TTr-NHNN ngày 20/6/2023.
20 Báo cáo số 432/BC-CP ngày 03/9/2023 và tờ trình 179/TTr-CP ngày 04/5/2023.
21 Khoản 1 Điều 4 Nghị định 31/2022/NĐ-CP quy định “Khách hàng có đề nghị được hỗ trợ lãi suất, đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng”.
22 Các Tờ trình: số 119/TTr-NHNN ngày 11/11/2022; số 151/TTr-NHNN ngày 20/12/2022; số 29/TTr-NHNN ngày 20/03/2023; số 61/TTr-NHNN ngày 28/4/2023; số 77/TTr-NHNN ngày 28/5/2023; số 85/TTr-NHNN ngày 09/06/2023; số 87/TTr-NHNN ngày 13/06/2023 và số 89/TTr-NHNN ngày 20/06/2023.
23 Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08/4/2023, Nghị quyết 59/NQ-CP ngày 23/4/2023.