Các vấn đề cử tri kiến nghị liên quan đến giải pháp hỗ trợ
doanh nghiệp, các đối tượng chính sách, công nhân
1. Đề nghị ban hành gói vay ưu đãi lãi suất thấp cho người nông dân. (Cử tri tỉnh Bình Phước)
Trả lời:
Bám sát chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, ngành ngân hàng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, triển khai nhiều giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, (trong đó có ngành trồng trọt), cụ thể:
- Về vốn tín dụng và cơ chế đặc thù: NHNN đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP với nhiều chính sách khuyến khích về tài sản đảm bảo, quy chế xử lý nợ đặc thù trong trường hợp khách hàng gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, thiên tai dịch bệnh trên phạm vi rộng (cơ cấu lại thời hạn trả nợ giữ nguyên nhóm nợ; khoanh nợ) và chính sách giảm lãi suất cho vay với mức tối thiểu 0,2%/năm so với lãi suất của các khoản cho vay cùng loại và có thời hạn tương ứng khi người dân mua bảo hiểm trong nông nghiệp.
- Về chính sách lãi suất:
+ Trong chỉ đạo, điều hành, từ đầu năm 2020 tới nay NHNN đã nhiều lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất nhằm tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp hơn, từ đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, làm việc trực tiếp với các TCTD, yêu cầu các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động, giảm lãi suất tiền gửi để tạo dư địa để giảm lãi suất cho vay. Thực tế hiện nay, mặt bằng lãi suất tiền gửi và cho vay tiếp tục có xu hướng giảm; lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân các giao dịch phát sinh mới của các NHTM giảm lần lượt khoảng 0,15%/năm và 0,25%/năm so với cuối năm 2023.
Ngoài ra, lãi suất của từng khoản cho vay đối với khách hàng của mỗi TCTD là do từng TCTD thỏa thuận với khách hàng theo quy định tại Luật Các TCTD và Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung) về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
+ NHNN đã có quy định về mức lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên (trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn) hiện nay là 4%/năm.
+ Ngành ngân hàng đã triển khai Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản với quy mô lên đến 15.000 tỷ đồng, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam thấp hơn tối thiểu từ 1% - 2%/năm so với mức lãi suất cho vay bình quân cùng kỳ hạn (ngắn hạn; trung, dài hạn) của chính ngân hàng cho vay nhằm hỗ trợ khách hàng thuộc lĩnh vực lâm sản, thủy sản vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất. Đến nay, Chương trình đã giải ngân hoàn thành 100% mục tiêu đề ra và dự kiến sẽ được nâng quy mô lên 30.000 tỷ đồng cho lĩnh vực lâm sản, thủy sản.
Như vậy, các chính sách hỗ trợ về tín dụng, lãi suất của ngành ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói chung và ngành trồng trọt nói riêng là tương đối đầy đủ. Nhờ triển khai đồng bộ các chương trình, giải pháp về tín dụng, lãi suất nêu trên, hoạt động tín dụng của cả nước nói chung và của tỉnh Bình Phước nói riêng đã đạt kết quả tích cực so với mặt bằng chung cả nước. Trong đó, dư nợ cho vay ngành trồng trọt của tỉnh đạt 21.064 tỷ đồng, tăng 7,3%, chiếm gần 27% tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn của tỉnh.
2. Kiến nghị rà soát lại kết quả giải ngân các gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp vì nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận do thiếu thông tin, thủ tục rườm rà. (Cử tri tỉnh Tây Ninh)
Trả lời:
Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho người dân, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, NHNN đã chỉ đạo các TCTD triển khai nhiều giải pháp về tín dụng ngành, lĩnh vực; rà soát cơ chế, thủ tục cho vay phù hợp với thực tiễn thị trường nhưng vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng, an toàn hệ thống để hỗ trợ các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng thuận lợi; thường xuyên nắm bắt tình hình thực hiện tại các TCTD và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai chính sách. Cụ thể:
- Ban hành chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ (Thông tư 02/2023/TT-NHNN) nhằm tạo điều kiện cho khách hàng được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, kéo dài thời gian trả nợ mà không bị chuyển nhóm nợ xấu, được tiếp cận các khoản vay mới phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế1.
- Điều hành tín dụng đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, phục vụ nhu cầu đời sống, tiêu dùng chính đáng của người dân, doanh nghiệp. Trọng đó:
+ Chỉ đạo TCTD đa dạng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn; khuyến khích các TCTD tập trung nguồn vốn cho các phân khúc nhà ở thương mại giá rẻ, nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân;
+ Tổ chức hàng trăm chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp tại 63 tỉnh, thành phố và một số vùng trên cả nước (Đông Nam Bộ, Tây Nguyên), các thành phố trọng điểm (Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên,…), các Hội nghị tín dụng chuyên đề (lĩnh vực bất động sản, doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hợp tác xã, nông sản xuất khẩu chủ lực,…) nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng2.
- Triển khai các giải pháp, chương trình tín dụng cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn, tăng khả năng tiếp cận tín dụng trong một số ngành, lĩnh vực chủ chốt: (i) Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng cho lĩnh vực lâm sản, thủy sản với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam thấp hơn tối thiểu từ 1%-2%/năm so với mức lãi suất cho vay bình quân cùng kỳ hạn của chính ngân hàng cho vay3; (ii) Gói tín dụng 120.000 tỷ đồng từ nguồn vốn của các NHTM với lãi suất cho vay thấp hơn từ 1,5%-2% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng trên thị trường theo đúng chỉ đạo của Chính phủ đối với chủ đầu tư, người mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ4.
- Tích cực đẩy mạnh triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong khuôn khổ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, NHNN và ngành ngân hàng đã tích cực phối hợp các bộ ngành triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để các đối tượng doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh sớm được tiếp cận chính sách, thông qua:
+ Tổ chức 07 Hội nghị, cuộc họp chuyên đề HTLS toàn quốc để quán triệt, phổ biến, thống nhất triển khai chính sách, có sự tham gia của các bộ, ngành, cơ quan có liên quan. Gần đây nhất, ngày 27/10/2023 NHNN đã tổ chức Hội nghị triển khai Công điện số 990/CĐ-TTg ngày 21/10/2023 và đẩy mạnh triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ trong đó, chỉ đạo các NHTM tiếp tục có giải pháp đẩy mạnh giải ngân HTLS với quy trình, thủ tục thông thoáng;
+ Ban hành 17 văn bản giải đáp để hướng dẫn, cung cấp thông tin, giải đáp các vấn đề phát sinh và đôn đốc các NHTM triển khai chính sách; đồng thời, tổ chức nhiều hình thức để truyền thông rộng rãi các chính sách;
+ Thành lập đường dây nóng (tại NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, các NHTM và chi nhánh các NHTM) để nắm bắt thực tế phản ánh của người dân, doanh nghiệp;
+ Thành lập các Đoàn công tác liên bộ ngành (gồm NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Xây dựng) khảo sát thực tế tình hình thực hiện chính sách HTLS tại một số địa phương, thông qua đó kịp thời đôn đốc, giải đáp thắc mắc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho NHTM và khách hàng trong thực hiện.
Nhờ đó, đến cuối tháng 11/2023, doanh số HTLS đạt khoảng 225.230 tỷ đồng, dư nợ HTLS đạt gần 65.000 tỷ đồng, số tiền HTLS lũy kế từ đầu chương trình đạt gần 1.099 tỷ đồng cho 2.249 khách hàng.
Với phương châm là chia sẻ khó khăn và đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp, các giải pháp được triển khai trong thời gian qua đã đạt được kết quả cụ thể, tích cực, giúp giảm áp lực cho người dân, doanh nghiệp trong trả nợ vay ngân hàng và tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh. Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các TCTD triển khai thiết thực, hiệu quả các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp theo đúng chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
3. Kiến nghị Chính phủ xem xét, triển khai gói hỗ trợ tài chính cho tiêu dùng khơi thông sản xuất hàng hoá của doanh nghiệp. Đồng thời, có giải pháp kích cầu tiêu dùng hiệu quả hơn nữa để thúc đẩy sản xuất phát triển. (Cử tri tỉnh Tây Ninh)
Trả lời:
Thời gian qua, thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã triển khai đồng bộ các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng, cụ thể:
- Về giải pháp hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp:
NHNN đã điều chỉnh giảm liên tục 04 lần các mức lãi suất điều hành với mức giảm 0,5-2,0%/năm5, trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao, qua đó tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, NHNN đã thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để phấn đấu giảm lãi suất cho vay, cụ thể: Khuyến khích tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (TCTD) tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh; Chỉ đạo các TCTD6 và 04 lần tổ chức cuộc họp với các NHTM yêu cầu tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất , nhất là giảm lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay còn dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới (phấn đấu mức giảm tối thiểu 1,5-2%/năm).
Đến nay, mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm (lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các NHTM giảm khoảng hơn 2,5%/năm so với cuối năm 2022)7. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với mốt số ngành lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,0%/năm. Với tác động có độ trễ của chính sách sau những lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành và các biện pháp đồng bộ khác của NHNN dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm.
- Về việc xem xét, triển khai gói hỗ trợ tài chính cho tiêu dùng:
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét tín dụng tiêu dùng là một trong những động lực tăng trưởng và hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thời gian qua, NHNN đã thực hiện nhiều giải pháp góp phần mở rộng, hỗ trợ tín dụng tiêu dùng, cụ thể như: Hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động tín dụng tiêu dùng; Khuyến khích các TCTD mở rộng, đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, cho vay với lãi suất hợp lý, đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức, đặc biệt là với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa; Phát triển mạng lưới nhằm gia tăng tiếp cận tín dụng của đến người dân, đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp của nhân dân; Tăng cường hoạt động truyền thông về cơ chế, chính sách cho vay, dịch vụ ngân hàng đến đông đảo người dân; Tích cực triển khai các giải pháp hỗ trợ người lao động, khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Với những những giải pháp đồng bộ mà ngành Ngân hàng đã triển khai góp phần đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng, kết quả đến cuối tháng 11/2023, dư nợ cho vay phục vụ nhu cầu đời sống và dư nợ tín dụng qua thẻ tín dụng của toàn hệ thống các TCTD đạt trên 2,74 triệu tỷ đồng, tăng 2,93% so với cuối năm 2022, chiếm khoảng 21,05% dư nợ nền kinh tế.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao đã nghiên cứu kích cầu tiêu dùng qua các chính sách như: xem xét miễn, giảm các thuế khác để doanh nghiệp có thể cắt giảm giá bán sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, tăng đầu tư và chi tiêu công... đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa sản xuất và kích cầu tiêu dùng. Trong đó bao gồm các giải pháp về phía Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số 11148/BKHĐT-TH ngày 29/12/2023, về phía Bộ Tài chính tại văn bản số 802/BTC-CST ngày 18/01/2024, về phía Bộ Công thương tại văn bản số 452/BCT ngày 19/01/2024.
4. Đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn. (Cử tri tỉnh Hà Tĩnh)
Trả lời:
Phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân và xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Do đó, về phía ngành Ngân hàng, NHNN luôn xác định nông nghiệp, nông thôn, nông dân là một trong những lĩnh vực ưu tiên đầu tư vốn tín dụng và đã ban hành, triển khai nhiều chính sách, giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực này, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng của người dân tại khu vực nông thôn, góp phần hỗ trợ phát triển bền vững ngành nông nghiệp.
Từ năm 2010, NHNN đã trình Chính phủ ban hành 01 Nghị định riêng về tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, thường xuyên rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế phù hợp với thực tế; hiện nay là Nghị định 55/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 116/2018/NĐ-CP) với một số chính sách ưu đãi như: Quy định mức cho vay không có tài sản bảo đảm từ 100 triệu đến 03 tỷ đồng; Chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, chuỗi giá trị; Chính sách giảm lãi suất cho vay khi người dân mua bảo hiểm trong nông nghiệp. Với đặc thù của sản xuất nông nghiệp thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, Nghị định đã có quy định về chính sách xử lý nợ (cơ cấu lại thời hạn trả nợ giữ nguyên nhóm nợ; khoanh nợ) trong trường hợp khách hàng gặp rủi ro, thiệt hại về vốn vay do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, thiên tai dịch bệnh trên phạm vi rộng nhằm giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn, tiếp cận vay mới, khôi phục sản xuất kinh doanh.
Kết quả đạt được: Tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn luôn có sự tăng trưởng đều qua các năm. Đến nay, đã có trên 90 TCTD và gần 1.100 QTDND tham gia cấp tín dụng cho lĩnh vực này. Đến cuối tháng 12/2023, dư nợ tín dụng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn toàn quốc đạt trên 3.294.045 tỷ đồng, tăng 11,56% so với 2022 và chiếm 24,29% tổng dư nợ nền kinh tế.
Bám sát nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 26/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 27/2/2023 của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (tại Quyết định số 860/QĐ-NHNN ngày 27/04/2023), trong đó có xây dựng Kế hoạch đánh giá, tổng kết việc thực hiện Nghị định 55/2015/NĐ-CP, Nghị định 116/2018/NĐ-CP để rà soát, đề xuất, sửa đổi (nếu cần thiết) các chính sách phù hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững trong giai đoạn mới.
5. Đề nghị ngành ngân hàng có giải pháp, đơn giản thủ tục để các ngân hàng thực hiện tốt việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp theo Nghị định số 31. (Cử tri tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)
Trả lời:
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội, NHNN đã phối hợp các cơ quan có liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; đồng thời ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN ngày 20/5/2022 hướng dẫn NHTM triển khai thực hiện.
Từ khi chính sách HTLS theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP được ban hành, NHNN và ngành Ngân hàng đã tích cực phối hợp các bộ ngành triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để các đối tượng doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh sớm được tiếp cận chính sách, thông qua: (i) Tổ chức 07 Hội nghị, cuộc họp chuyên đề HTLS toàn quốc để quán triệt, phổ biến, thống nhất triển khai chính sách, có sự tham gia của các bộ, ngành, cơ quan có liên quan; (ii) Ban hành 19 văn bản giải đáp để hướng dẫn, cung cấp thông tin, giải đáp các vấn đề phát sinh và đôn đốc các NHTM triển khai chính sách; (iii) Tổ chức truyền thông một cách rộng rãi bằng nhiều hình thức: Truyền hình, báo chí Trung ương và địa phương, tổ chức kết nối ngân hàng – doanh nghiệp, Hội nghị phổ biến trực tiếp đến đối tượng thụ hưởng và các Hiệp hội ngành nghề, Hiệp hội doanh nghiệp tại 63 tỉnh, thành phố; (iv) Đã thành lập đường dây nóng tại NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, các NHTM và chi nhánh các NHTM để nắm bắt thực tế phản ánh của người dân, doanh nghiệp; (v) Thành lập các Đoàn công tác liên bộ ngành (gồm NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Xây dựng) khảo sát thực tế tình hình thực hiện chính sách HTLS tại một số địa phương, thông qua đó kịp thời đôn đốc, giải đáp thắc mắc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho NHTM và khách hàng trong thực hiện.
Thực tế triển khai cho thấy, chưa có một chương trình nào được triển khai khẩn trương, quyết liệt như chính sách HTLS theo Nghị quyết 43/2022/QH15 và Nghị định 31/2022/NĐ-CP. Tuy nhiên, kết quả HTLS còn thấp là do các khó khăn, vướng mắc như: khách hàng không đáp ứng đối tượng được HTLS (ví dụ như khách hàng hộ kinh doanh không có đăng ký kinh doanh,...); tâm lý e ngại công tác thanh, kiểm tra, cân nhắc giữa lợi ích từ HTLS 2% và chi phí bỏ ra khi nhận HTLS như theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; khó đánh giá về khả năng “phục hồi” theo Nghị quyết 43/2022/QH15; một số khách hàng lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ nên không thuộc đối tượng được HTLS; bối cảnh kinh tế - xã hội đã thay đổi so với khi ban hành chính sách nên nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp thay đổi,… NHNN đã thường xuyên báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ8 về các khó khăn, vướng mắc đồng thời có các kiến nghị, đề xuất cụ thể đối với Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương để thúc đẩy triển khai chính sách HTLS.
Theo quy định tại Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị định 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ thì chính sách này được triển khai trong vòng 02 năm 2022 – 2023. Như vậy, chính sách HTLS đã dừng thực hiện từ 31/12/2023.
6. Cử tri kiến nghị xem xét hỗ trợ lãi suất vay vốn của hộ cận nghèo theo tiêu chí của cấp tỉnh trở lên như mức lãi suất vay vốn đối với hộ nghèo. (Cử tri tỉnh Bình Dương)
Trả lời:
Hiện nay chương trình tín dụng đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo đang được thực hiện tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) theo quy định tại Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo. Theo đó, mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo đang áp dụng là 100 triệu đồng/hộ, thời hạn cho vay tối đa 10 năm, lãi suất cho vay đối với hộ cận nghèo (7,92%/năm) bằng 120% so với lãi suất cho vay đối với hộ nghèo (6,6%/năm). Theo báo cáo của NHCSXH, đến 31/12/2023, dư nợ chương trình cho vay đối với hộ nghèo đạt 33.563 tỷ đồng với hơn 689 nghìn khách hàng có dư nợ, dư nợ chương trình cho vay đối với hộ cận nghèo đạt 41.509 tỷ đồng với hơn 845 nghìn khách hàng có dư nợ, đây là những chương trình có dư nợ lớn tại NHCSXH.
Việc thiết kế mức độ ưu đãi của chính sách đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo được căn cứ trên cơ sở quan điểm, định hướng về chính sách xã hội tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, theo đó “chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số”. Do đó, mức lãi suất cho vay đối với các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH đã được các Bộ, ngành, cơ quan chủ trì xây dựng, thiết kế theo hướng ưu tiên trước hết với hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, sau đó đến hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, các đối tượng chính sách khác. Ngoài ra, mức lãi suất còn căn cứ trên khả năng cân đối, bố trí cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý của ngân sách nhà nước cho NHCSXH để tổ chức triển khai chương trình.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2022-2023, thực hiện các chính sách tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ (chương trình kết thúc ngày 31/12/2023), NHCSXH đã thực hiện hỗ trợ lãi suất 2%/năm đối với các khoản vay có lãi suất cho vay trên 6%/năm được giải ngân trong giai đoạn 2022-2023, theo đó các khoản vay của hộ nghèo, hộ cận nghèo với mức lãi suất theo quy định lần lượt là 6,6%/năm và 7,92%/năm cũng thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất theo Chương trình và giảm 2%/năm còn tương ứng là 4,6%/năm và 5,92%/năm. Theo báo cáo của NHCSXH, đến ngày 31/10/2023, NHCSXH đã hoàn thành theo kế hoạch được giao tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội việc thực hiện hỗ trợ lãi suất (2.995,2/3000 tỷ đồng, đạt 99,84% kế hoạch, với hơn 3,8 triệu khoản vay được hỗ trợ).
7. Theo Quyết định 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, tại Dự án 1 quy định: Hộ dân tộc thiểu số nghèo; hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có nhu cầu vay vốn được vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội để có đất ở, xây dựng mới hoặc sửa chữa nhà ở, tạo quỹ đất sản xuất, học nghề và chuyển đổi nghề. Cử tri đề nghị xem xét mở rộng đối tượng áp dụng chính sách này đối với hộ cận nghèo, vì điều kiện đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn. (Cử tri tỉnh Quảng Ngãi)
Trả lời:
Thực hiện nhiệm vụ được giao, trên cơ sở bám sát các Nghị quyết của Quốc hội (Nghị quyết số 88/2019/QH14, Nghị quyết số 120/2020/QH14), Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1: 2021-2025 (Chương trình), NHNN đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình.
Theo báo cáo của NHCSXH (ngân hàng triển khai cho vay các chính sách tín dụng ưu đãi), đến 31/12/2023, dư nợ cho vay các chính sách tín dụng ưu đãi theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP của Chính phủ đạt 2.317 tỷ đồng với hơn 47 nghìn khách hàng còn dư nợ. Trong đó kết quả đạt được của một số chính sách như: (i) Cho vay hỗ trợ đất ở dư nợ đạt 28,4 tỷ đồng, với 588 khách hàng còn dư nợ; (ii) Cho vay hỗ trợ nhà ở dư nợ đạt 1.175 tỷ đồng, với 29.676 khách hàng còn dư nợ; (iii) Cho vay hỗ trợ đất sản xuất dư nợ đạt 116,4 tỷ đồng, với 1.777 khách hàng còn dư nợ; (iv) Cho vay hỗ trợ chuyển đổi nghề dư nợ đạt 991,7 tỷ đồng, với 15.477 khách hàng còn dư nợ; (v) Cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị dư nợ đạt 5,2 tỷ đồng, với 98 khách hàng còn dư nợ.
Sau một thời gian triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang được cơ quan chủ trì hoàn thiện hồ sơ Báo cáo đề xuất điều chỉnh chủ trương đầu tư Chương trình để Hội đồng thẩm định Nhà nước thẩm định, trên cơ sở đó sẽ ban hành Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp.
8. Đề nghị có chính sách để công nhân tiếp cận nguồn vốn ưu đãi vay làm nhà ở. (Cử tri Tp. Hồ Chí Minh)
Bám sát chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, NHNN luôn quan tâm chỉ đạo, triển khai các chính sách tín dụng hỗ trợ nhà ở cho người lao động, công nhân có thu nhập thấp góp phần tạo điều kiện để đối tượng này tiếp cận nguồn vốn ưu đãi để xây dựng nhà ở, ổn định cuộc sống, yên tâm lao động sản xuất; chỉ đạo các TCTD ưu tiên nguồn vốn cho người mua nhà cũng như chủ đầu tư để phát triển nhà ở xã hội, đơn giản hóa và rút ngắn quy trình, thủ tục đi đôi với việc tuân thủ đúng quy định của pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn tín dụng. Tình hình thực hiện các chương trình như sau:
- Từ năm 2012, NHNN đã triển khai chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở 30.000 tỷ đồng cho vay cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp, khó khăn về nhà ở tại khu vực đô thị và các chủ đầu tư xây dựng dự án nhà ở xã hội. Theo đó, NHNN đã dành khoảng 30.000 tỷ đồng tái cấp vốn cho 19 ngân hàng thương mại (NHTM) để có nguồn vốn tham gia Chương trình. Chương trình hoàn thành giải ngân vào 31/12/2016, đạt doanh số hơn 29 nghìn tỷ đồng. Đến 31/12/2023, dư nợ cho vay của Chương trình đối với khách hàng là 4.646 tỷ đồng.
- Hiện nay, ngành Ngân hàng đang triển khai 02 chương trình tín dụng hỗ trợ về nhà ở dành cho người lao động, công nhân có thu nhập thấp:
+ Chương trình cho vay nhà ở xã hội (NƠXH) theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP: Hỗ trợ vốn vay để mua, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở cho 05 nhóm đối tượng (trong đó có người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị và người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp) với lãi suất ưu đãi hiện là 4,8%; mức cho vay tối đa lên tới 80% giá trị hợp đồng mua, thuê, thuê mua nhà và 70% giá trị dự toán xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở; Thời hạn vay vốn tối thiểu theo quy định là 15 năm.
Trong thời kỳ khó khăn do tác động của Covid-19, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó chỉ đạo ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tiếp tục tích cực triển khai chính sách cho vay nhà ở xã hội, cho phép NHCSXH nâng hạn mức phát hành trái phiếu Chính phủ bảo lãnh tối đa 15.000 tỷ đồng để bổ sung nguồn vốn cho vay NƠXH theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP. Đến 31/12/2023, doanh số cho vay chương trình đạt 19.518 tỷ đồng, dư nợ chương trình đạt 16.906 tỷ đồng, tăng 60,1% so với 31/12/2022, với trên 42 nghìn khách hàng có dư nợ.
+ Chương trình tín dụng 120.000 tỷ đồng cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án NƠXH, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ: NHNN đã chỉ đạo các NHTM triển khai chương trình từ ngày 01/04/2023 bằng nguồn lực của các NHTM, có tính chất dài hạn và được triển khai tối đa đến năm 2030 (hoặc kết thúc sớm hơn nếu doanh số giải ngân đạt 120.000 tỷ đồng) với mức lãi suất ưu đãi do NHNN công bố theo từng thời kỳ, hiện là 7,5%/năm đối với người mua nhà và 8%/năm đối với chủ đầu tư (kể từ 01/01/2024 đến hết 30/6/2024). Khách hàng vay vốn Chương trình 120.000 tỷ được ưu đãi về lãi suất mà không bị áp đặt thêm bất kỳ điều kiện vay vốn hay thủ tục nào chặt chẽ hơn cơ chế cho vay hiện hành. Đến nay, các NHTM đã cam kết cấp tín dụng cho 15 dự án với số tiền cam kết khoảng 7.000 tỷ đồng.
- Ngoài ra, hiện nay, NHCSXH cũng đang triển khai nhiều chương trình cho vay khác về nhà ở đối với các đối tượng chính sách như: Chương trình cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; cho vay hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt khu vực Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung; Cho vay hỗ trợ nhà ở vùng thường xuyên ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long. Đến 31/12/2023, dư nợ cho vay tại NHCSXH của các chương trình cho vay về nhà ở đối với các đối tượng chính sách theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ là 3.694 tỷ đồng với khoảng 197 nghìn khách hàng còn dư nợ.
Như vậy, thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều chương trình tín dụng về nhà ở, góp phần tích cực trong việc cải thiện nhà ở đối với công nhân, người có thu nhập thấp. Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Xây dựng, các cơ quan liên quan trong việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, tháo gỡ khó khăn trong việc triển khai, xây dựng nhà ở xã hội.
9. Cử tri kiến nghị Chính phủ chỉ đạo NHNN, Ngân hàng Chính sách xã hội Trung ương xem xét, phân bổ nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội - Chi nhánh thành phố Hải Phòng để có nguồn vốn hỗ trợ công nhân lao động, nhân dân được vay vốn, góp phần thực hiện hoàn thành mục tiêu 1 triệu căn nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp. (Cử tri Tp.Hải Phòng)
Trả lời:
* Đối với vấn đề cử tri kiến nghị, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, NHNN có ý kiến như sau:
Hiện nay, ngành Ngân hàng đang triển khai một số Chương trình tín dụng nhà ở theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như Chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội; Chương trình 120.000 tỷ đồng cho vay chủ đầu tư và người mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư theo Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/03/2023 của Chính phủ.
- Đối với Chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP:
+ Tại các tổ chức tín dụng (TCTD) được chỉ định: Hiện nay, ngân sách nhà nước chưa bố trí nguồn vốn cấp bù lãi suất cho vay cho các TCTD được chỉ định để triển khai chương trình này.
+ Tại ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH): Thời gian qua, NHCSXH đã được ngân sách nhà nước cấp nguồn vốn để triển khai Chương trình.
Theo đó, giai đoạn 2022-2023, theo Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ, NHCSXH được ngân sách nhà nước bố trí 15.000 tỷ đồng từ nguồn phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh để thực hiện Chương trình. Đến tháng 12/2023, dư nợ cho vay Nhà ở xã hội theo Chương trình phục hồi đạt gần 10.300 tỷ đồng đã hỗ trợ mua và xây dựng, sửa chữa, cải tạo cho trên 26.000 căn nhà ở xã hội, góp phần giúp các cá nhân, hộ gia đình mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân và xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở theo chính sách về nhà ở xã hội.
Tuy nhiên, dư nợ của Chương trình mới đạt trên 68% kế hoạch do nguồn cung nhà ở xã hội tại các địa phương còn hạn chế, nhiều đối tượng có nhu cầu nhưng qua rà soát không đủ điều kiện vay vốn tín dụng chính sách xã hội; chủ đầu tư khi bán nhà thì chưa giải chấp tài sản nên người mua nhà không thực hiện được việc đăng ký giao dịch bảo đảm tại NHCSXH…
Về phía chi nhánh NHCSXH thành phố Hải Phòng: giai đoạn 2022-2023 được phân bổ kế hoạch nguồn vốn cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100 là hơn 190 tỷ đồng. Đến 31/12/2023, dư nợ đạt trên 170 tỷ đồng với hơn 300 khách hàng được vay vốn (chưa đạt kế hoạch được giao).
Giai đoạn 2024-2025, NHCSXH chưa được giao nguồn vốn cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100. Vì vậy, trong thời gian tới, khi được các cơ quan có thẩm quyền phân giao nguồn vốn, NHCSXH sẽ chủ động triển khai phân bổ vốn cho các địa phương để thực hiện cho vay nhà ở xã hội theo nhu cầu và đăng ký của địa phương.
- Đối với Chương trình 120.000 tỷ đồng: Đây là chương trình tín dụng sử dụng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại (NHTM) tham gia Chương trình (Hiện nay, Agribank, BIDV, Vietinbank và Vietcombank đăng ký 30.000 tỷ đồng/mỗi ngân hàng, NHTMCP Tiên Phong đăng ký 5.000 tỷ đồng).
Hiện nay, UBND thành phố Hải Phòng đã công bố danh mục 04 dự án đủ điều kiện vay vốn Chương trình 120.000 tỷ đồng với nhu cầu vay 6.160 tỷ đồng. Theo báo cáo, các NHTM trên địa bàn đang tiếp cận chủ đầu tư dự án để hướng dẫn khách hàng, thu thập hồ sơ, thẩm định dự án và các NHTM không gặp vướng mắc về nguồn vốn để cho vay; các dự án thuộc danh mục và đủ điều kiện vay sẽ được NHTM thẩm định, quyết định cấp tín dụng và giải ngân cho vay theo quy định.
* Đối với vấn đề cử tri kiến nghị Bộ Xây dựng cũng có đã ý kiến tại văn bản số 998/BXD-QLN ngày 08/03/2024 (đính kèm).
1 Lũy kế đến thời điểm 30/11/2023, đã có 175.581 lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN, với tổng giá trị nợ gốc và lãi được cơ cấu là 171.083 tỷ đồng.
2 Tính đến cuối Quý III/2023, đã có khoảng 460 buổi gặp gỡ, đối thoại giữa ngân hàng và doanh nghiệp được tổ chức trên toàn quốc. Thông qua chương trình, các TCTD đã hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho trên 185 nghìn doanh nghiệp và một số khách hàng khác, với dư nợ hơn 1,7 triệu tỷ đồng.
3 Đến cuối tháng 11/2023, sau gần 5 tháng triển khai, các NHTM đã thực hiện cho vay theo Chương trình với doanh số giải ngân đạt gần 11.000 tỷ đồng cho gần 4.200 lượt khách hàng vay vốn, chiếm trên 73% tổng số tiền cam kết cho vay theo chương trình.
4 Đến nay, các NHTM đã cam kết cấp tín dụng cho 12 dự án với số tiền cam kết là khoảng 5.000 tỷ đồng, đã giải ngân cho 06 dự án với số tiền là 428 tỷ đồng.
5 (i) Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6%/năm xuống 4,5%/năm; Lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,5%/năm xuống 3%/năm; Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN giảm từ 7%/năm xuống 5%/năm; (ii) Lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn dưới 6 tháng, tiền gửi KKH và kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1%/năm xuống 0,5%/năm, tiền gửi kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng giảm từ 6%/năm xuống 4,75%/năm; (iii) Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên giảm từ 5,5%/năm xuống 4%/năm.
6 Công văn số 4985/NHNN-CSTT ngày 27/6/2023 về giảm mặt bằng lãi suất và công văn số 6385/NHNN-CSTT ngày 14/8/2023 về giảm lãi suất cho vay. Công văn số 5152/NHNN-CSTT ngày 30/6/2023; Công văn số 282/HHNH-PLNV ngày 11/7/2023 kêu gọi TCTD tiếp tục đồng hành, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, người dân. Công văn số 6936/NHNN-TD ngày 5/9/2023 về tăng cường công tác tín dụng, nâng cao khả năng tiếp cận, hấp thụ vốn tín dụng.
7 Đến ngày 20/12/2023, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới của các NHTM ở mức 3,9%/năm và 6,7%/năm.
8 Các Tờ trình: số 119/TTr-NHNN ngày 11/11/2022; số 151/TTr-NHNN ngày 20/12/2022; số 04/TTr-NHNN ngày 16/01/2023, số 14/TTr-NHNN ngày 10/02/2023; số 29/TTr-NHNN ngày 20/03/2023; số 61/TTr-NHNN ngày 28/4/2023; số 77/TTr-NHNN ngày 28/5/2023; số 85/TTr-NHNN ngày 09/06/2023; số 87/TTr-NHNN ngày 13/06/2023; số 89/TTr-NHNN ngày 20/06/2023.