Skip to Main Content
Lỗi

State bank of vietnam portal

the state bank of viet nam

|
  • News
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Statistics
    • Balance of International Payment
    • Total Liquidity
      • Total Liquidity & Deposits with Credit Institutions
      • Cash in Total liquidity
    • Settlements
      • National Payment System Transactions
      • Domestic Transactions by Means of Payment
      • Trasactions via ATM.POS/EFTPOS/EDC
      • Number of Bank Cards
      • Deposits in Indivisudual Payment Accounts
      • List of Non-Bank Payment Service Suppliers
    • Credit to the Economy
    • Performance of Credit Institutions
      • Key Statistical RatiosKey Statistical Ratios
      • Ratio of loan outstanding over total deposits
      • Ratio of NPLs over Total Loan Outstanding
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
Trang chủ
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
  • Hợp tác nghiên cứu

Một số hạn chế trong việc áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu ở các nước đang phát triển và bài học cho Việt Nam

30/11/2015 22:54:00
0:00
/
0:00
Giọng Nam
  • Giọng Nam
  • Giọng Nữ

Một trong những thách thức của nhiều Ngân hàng Trung ương (NHTW) trên thế giới là việc cố gắng tìm ra một khuôn khổ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) phù hợp với mục tiêu phát triển của quốc gia mình. Trên thực tế cũng đã có nhiều cơ chế điều hành CSTT được xác lập và rất khó để đánh giá đâu là cơ chế tối ưu do mỗi quốc gia đều có những điều kiện phát triển kinh tế xã hội khác nhau và mục tiêu theo đuổi là khác nhau ở từng giai đoạn. Từ sau những năm 90, khi cơ chế tỷ giá danh nghĩa mục tiêu và mục tiêu tiền tệ (kiểm soát thông qua khối lượng tiền) thất bại trong việc giảm tỷ lệ lạm phát, nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển bắt đầu hướng tới khuôn khổ CSTT mới – khuôn khổ lạm phát mục tiêu (LPMT). LPMT được người ta nhắc đến nhiều hơn như là một sự lựa chọn tối ưu bởi suy cho cùng mục tiêu cuối cùng của CSTT là việc duy trì thành công tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định. Việc các quốc gia phát triển áp dụng thành công cơ chế này đã khuyến khích các nước đang phát triển và trong quá trình chuyển đổi tiếp tục theo đuổi khuôn khổ CSTT này. Những liệu đây thật sự có phải là một sự lựa chọn tốt cho những nền kinh tế đang phát triển hay không? Những băn khoăn về tính hiệu quả của khuôn khổ này ở các nước đang phát triển cần được cân nhắc, xem xét một cách nghiêm túc.

1. Các nội dung cơ bản của khuôn khổ CSTT LPMT

Các nhà kinh tế học thường đánh giá cao vai trò của việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định, theo đó CSTT chính là công cụ trực tiếp giúp Chính phủ đạt được mục tiêu bình ổn giá cả trong trung hạn. Cơ chế LPMT không chỉ là việc công bố rộng rãi những mục tiêu về lạm phát bằng các con số cho năm tiếp theo mà còn bao gồm nhiều nội dung khác được thực hiện đồng thời, cụ thể:

(1) Tính minh bạch: thể hiện thông qua hiệu hiệu quả của CSTT và trách nhiệm giải trình của NHTW. Tính minh bạch của CSTT đòi hỏi NHTW phải minh bạch trong mục tiêu của chính sách, minh bạch trong hoạt động của cơ chế truyền tải tiền tệ giữa hành động chính sách của NHTW và các biến mục tiêu, minh bạch trong việc đánh giá triển vọng của hoạt động kinh tế và lạm phát từ quan điểm của NHTW, và minh bạch trong việc thiết lập tỷ lệ lãi suất chính sách.

Tính minh bạch làm tăng hiểu biết tốt hơn của công chúng về thị trường và CSTT và CSTT sẽ được lợi từ sự hiểu biết và ủng hộ của công chúng. Khi thị trường tài chính hiểu và dự đoán được những động thái của NHTW, những bước đầu tiên trong cơ chế truyền tải tiền tệ giữa các hành động chính sách và hoạt động kinh tế cũng như lạm phát được thực hiện trôi chảy hơn.

(2) Chiến lược truyền thông và công bố thông tin: giữ vai trò quan trọng trong việc truyền tải quan điểm của NHTW đến thị trường và công chúng. Việc công bố thông tin1 thêm vào đó còn tác động trực tiếp đến tính minh bạch trong điều hành CSTT của NHTW.

(3) Trách nhiệm giải trình: là nhân tố thúc đẩy tính minh bạch của NHTW và có mối liên hệ qua lại với việc công bố thông tin. Vì muốn trách nhiệm giải trình được hiệu quả, cơ quan giám sát phải có đủ thông tin để đánh giá việc điều hành chính sách của NHTW. Các NHTW cung cấp thông tin đó trong nội dung chiến lược truyền thông toàn diện của họ, và nhu cầu cung cấp thông tin này đóng vai trò quan trọng ngày càng tăng trong tính minh bạch của CSTT.

2. Các điều kiện cơ bản để NHTW áp dụng cơ chế điều hành CSTT lạm phát mục tiêu

Quy trình áp dụng lạm phát mục tiêu trên thực tế bao gồm hai bước: Một là, NHTW đưa ra dự báo xu hướng lạm phát năm sau (chỉ số lạm phát dự báo): Việc đưa ra chỉ số dự báo phụ thuộc rất nhiều vào tính độc lập của NHTW các nước. Ở các nước phát triển, chỉ số này thường do chính NHTW tự mình công bố hoặc thỏa thuận với Bộ tài chính. Ở một số nước khác, Bộ tài chính chịu trách nhiệm đưa ra con số dự báo, NHTW lúc này chỉ đóng vai trò cố vấn hoặc trong một số trường hợp, Chính phủ sẽ là người phê duyệt chỉ số lạm phát dự báo do NHTW đệ trình. Nhưng bằng phương pháp nào đi nữa thì việc công bố chỉ số lạm phát dự báo nhất thiết phải kèm theo sự giải thích rõ ràng của cơ quan thực thi và chỉ nên đưa ra một dự báo duy nhất để thể hiện được sự thống nhất và quyết tâm của Chính phủ trong thực thi CSTT; Hai là, Chỉ số dự báo này tiếp đó được so với mục tiêu lạm phát mà NHTW mong muốn đạt được (còn gọi là chỉ số lạm phát mục tiêu). Chênh lệch giữa chỉ số dự báo và chỉ số mục tiêu sẽ nói lên mức độ mà CSTT cần điều chỉnh. LPMT không chỉ là mục tiêu điều hành của CSTT mà còn có ý nghĩa trong việc đánh giá năng lực hoạt động của bản thân NHTW. Nếu NHTW thành công trong việc đạt được giá trị mục tiêu cũng thời hạn yêu cầu thì có thể nói rằng NHTW đó đã hoạt động hiệu quả.

Theo đó, các quốc gia muốn áp dụng được khuôn khổ CSTT LPTM cần có các điều kiện cơ bản sau: (1) Độc lập tương đối trong thực thi CSTT: NHTW cần phải, trong giới hạn cho phép, được tự do lựa chọn các công cụ để đạt được tỷ lệ lạm phát mục tiêu. Theo đó, việc chi phối của ngân hàng (áp chế tài chính – fiscal dominance), cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khóa không được gây ra bất cứ ảnh hưởng nào đến CSTT; (2) Có năng lực trong việc thực hiện mục tiêu làm phát (bao gồm cả năng lực phân tích, dự báo lạm phát); (3) Thể chế tài khóa, tài chính vững mạnh: thể hiện ở sự cân bằng trong thu chi ngân sách, không có sự can thiệp để NHTW tài trợ cho thâm hụt ngân sách hoặc phát hành tiền để Chính phủ trả nợ; hê hệ thống ngân hàng và hệ thống các định chế tài chính phi ngân hàng phát triển vững mạnh; (4) Thể chế tiền tệ vững mạnh: Mục tiêu ổn định giá cả phải được hiểu là mục tiêu quan trọng nhất của CSTT trong dài hạn, được phổ biến rộng rãi và được thể chế hóa (quy định cụ thể trong Luật).

3. Khác biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển trong việc áp dụng LPMT

Hầu hết các quốc gia đang phát triển đều có những điểm tương đồng trong CSTT và thị trường vốn (cải tổ thị trường vốn, mở cửa tham gia vào các thị trường vốn quốc tế, nâng cao tác dụng các công cụ gián tiếp của CSTT v.v...). Tuy nhiên, mức độ phát triển ở từng quốc gia lại có sự khác nhau; Do đó sẽ rất khó khăn trong việc đánh giá khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu cho từng quốc gia này. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu các quốc gia có nền kinh tế mới nổi và đang trên đà phát triển có thể áp dụng thành công cơ chế lạm phát mục tiêu như các nước phát triển đã làm được hay không? Và đâu là những điểm khác biệt quan trọng trong việc áp dụng khuôn khổ CSTT này giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển.

Ở các nước phát triển, cơ chế này được áp dụng từ đầu những năm 90 với các đặc điểm sau:

- Tỷ giá được thả nổi hoàn toàn. Một số nước như Anh, Thụy Điển, Phần Lan áp dụng cơ chế LPMT khi cơ chế tỷ giá mục tiêu được sử dụng như một neo danh nghĩa không thành công;

- NHTW độc lập ít nhất trong việc sử dụng các công cụ CSTT và không bị chi phối bởi chính sách tài khóa;

- NHTW sử dụng lãi suất ngắn hạn như là một công cụ CSTT, thị trường tài chính phát triển, hỗ trợ hiệu quả cho việc truyền tải các tác động chính sách đến tổng cầu và lạm phát;

- LPMT được sử dụng nhằm xây dựng niềm tin vào chính sách vĩ mô. Tại một vài quốc gia, Bộ tài chính và Thống đốc NHTW cùng công bố các mục tiêu liên quan, điều này giúp loại bỏ ý nghĩ về các xung đột mục tiêu trong cùng một chính sách kinh tế. Quá trình đối thoại với công chúng thông qua các bài phát biểu và xuất bản những báo cáo về lạm phát giải thích cho công chúng đâu là mục tiêu của việc áp dụng các CSTT. Khi khuôn khổ LPMT được tin tưởng, sẽ dễ dàng hơn để tác động đến những kỳ vọng lạm phát của công chúng;

Ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi, việc áp dụng cơ chế LPMT có những đặc điểm khác biệt với các nước đang phát triển: (i) Các định chế tài khóa yếu kém; (ii) Các định chế tài chính yếu kém; (iii) Mức độ tin cậy thấp của các định chế tiền tệ; (iv) Tình trạng Đô la hóa; (v) Dễ bị tổn thương trước sự dừng lại đột ngột của dòng vốn vào.

Trên thực tế, các nước phát triển không phải là không gặp những vấn đề về thể chế tài khóa, tài chính và tiền tệ (03 vấn đề đầu tiên đã nêu ở trên), nhưng có sự khác biệt lớn về mức độ nghiêm trọng của vấn đề ở các quốc gia thị trường mới nổi. Sự yếu kém của thể chế tài khóa, tài chính và tiền tệ làm cho các quốc gia thị trường mới nổi trở nên rất dễ bị tổn thương khi có lạm phát cao hoặc khi xảy ra các cuộc khủng hoảng tiền tệ, bởi vậy không thể biết trước được giá trị thực của đồng tiền các quốc gia này. Do đó, các quốc gia thị trường mới nổi phải đối mặt với tình huống đáng lo ngại đó là việc người dân có thể chuyển sang giữ ngoại tệ, từ đó dẫn đến hiện tượng thay thế tiền tệ. Hiện tượng thay thế tiền tệ phát sinh dường như không chỉ do diễn biến lạm phát đã xảy ra trong quá khứ, mà còn do một thực tế là một đồng tiền như đô la Mỹ được sử dụng làm đơn vị tính toán chính trong các giao dịch quốc tế. Thực tế này đã buộc cơ quan tiền tệ phải cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) nhận tiền gửi ngoại tệ. Theo đó, khi có sự chuyển dịch đột ngột từ nội tệ sang ngoại tệ, không hẳn là sẽ tạo ra sự hoảng loạn đối với ngân hàng vì đơn giản là ngân hàng chỉ cần thay đổi đồng tiền định giá của các khoản tiền gửi mà thôi. Còn trường hợp khách hàng rút tiền ra để mua ngoại tệ, thì tất nhiên là có thể dẫn đến sự hoảng loạn đối với ngân hàng.

Như vậy, rõ ràng các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi và mới nổi nên tập trung vào phát triển và củng cố thể chế để đảm bảo chiến lược CSTT hướng về LPMT tạo ra được ác kết quả vĩ mô tốt hơn. Chile và Brazin là hai trường hợp điển hình trong việc giảm lạm phát và duy trì ổn định vĩ mô từ mức lạm phát cao thông qua thực hiện khuôn khổ CSTT LPTM.

Mặt khác, một trong những điều kiện tiên quyết của LPMT là phải xác định rõ mức độ độc lập của CSTT với chính sách tài khóa. Bất kỳ cam kết nào liên quan đến mục tiêu tỷ giá hay cung tiền đều có thể mâu thuẫn với mục tiêu lạm phát đề ra. Ở các nước đang phát triển, điều này dường như là chưa đủ. Kinh nghiệm ở các quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao, trên 30-40% cho thấy rằng, tác động của CSTT lên lạm phát sẽ không như mong đợi và ngắn hạn. Theo đó, một bước quan trọng của các nhà hoạch định chính sách là làm thế nào để giảm tỷ lệ lạm phát một cách liên tục, điều này đòi hỏi việc triển khai một chương trình ổn định thông qua việc giảm vai trò của NHTW trong lĩnh vực tài chính của những thâm hụt chính phủ, sử dụng một vài neo danh nghĩa nhằm giảm kỳ vọng lạm phát, phù hợp với mục tiêu lạm phát.

Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, cơ chế này không được áp dụng ở những môi trường mà lạm phát quá cao, mà chỉ nên áp dụng ở các nước có lạm phát thấp dưới 10% qua đó giúp hỗ trợ xây dựng một niềm tin ban đầu vào giai đoạn đầu tiên của quá trình thiết lập khuôn khổ mới. Ở một nước đang phát triển, sẽ là rất khá để đánh giá những điều kiện tiền đề này có được thỏa mãn hay không. Sự chi phối của chính sách tài khóa không phải lúc nào cũng là nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao, việc phát triển CSTT nào và bản chất của các cú sốc tới nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố cụ thể của từng quốc gia và việc áp dụng tỷ giá hối đoái như quản lý có thả nổi, hoặc tỷ giá cố định đem lại cho NHTW toàn quyền quyết định trong việc sắp xếp các mục tiêu bên ngoài và bên trong theo một cách kém minh bạch hơn.

Khả năng áp dụng LPTM ở các nước đang phát triển

Nhiều phân tích đã chỉ ra các điều kiện áp dụng LPMT bao gồm: (i) Mức độc lập tương đối của NHTW trong thực thi CSTT; (ii) Có nguồn thu rộng rãi, độc lập với ngân sách nhà nước; (iii) NHTW không nên theo đuổi nhiều mục tiêu và phải có khả năng thực hiện mục tiêu lạm phát mà không phải có trách nhiệm với các mục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay tỷ giả. Như vậy, một trong những tiền đề cần thiết để áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu là NHTW phải độc lập tương đối trong việc điều hành và thực thi CSTT cũng như có nguồn thu ổn định độc lập với ngân sách nhà nước. Đây là hai vấn đề mà hầu hết các nước đang phát triển chưa giải quyết được.

Đối với các nước đang phát triển, việc thường xuyên sử dụng in tiền làm nguồn thu chính là nguyên nhân làm biến dạng cấu trúc hệ thống thuế. Sự biến dạng này làm cho nguồn thu thuế mất ổn định, làm tăng “'sức ì” của các cơ quan quản lý điều hành nhà nước và giảm lòng tin của công chúng vào Chính phủ. Chú trọng vào nguồn thu từ in tiền là một bằng chứng đơn giản và rõ ràng nhất của ngân sách chi phối - khi mà Chính phủ không đủ khả năng nâng cao và mở rộng cơ sở nguồn thu của mình.

Thị trường tài chính yếu kém cũng có thể là một minh chứng cho việc ngân sách chi phối. Không hiếm khi tại các nước đang phát triển, thị trường tài chính trở thành “sản phẩm phụ” của việc xây dựng cấu trúc thị trường để bơm nguồn vốn từ hệ thống tài chính vào ngân sách. Một cách bơm vốn tương tự cũng có thể được diễn ra qua hiện tượng trấn áp tài chính và giới hạn thu nhập của khu vực ngân hàng.

Việc duy trì ổn định tỷ giá hối đoái ở một số nước đang phát triển sẽ xung đột với nguyên tắc LPMT, mục tiêu lạm phát khi đó sẽ tồn tại cùng những mục tiêu khác của CSTT và hiển nhiên, hiệu quả của LPMT sẽ ở mức thấp nhất. Do đó, thả nổi tỷ giá cũng là một điều kiện để cơ chế LPMT phát huy được hết hiệu quả. Điều này cũng đồng nghĩa với việc huỷ bỏ việc kiểm soát với các luồng vốn. Đối với các nước đang phát triển, điều này không được mong đợi vì những hậu quả không thể lường trước.

Một vấn đề nữa gây khó khăn cho việc áp dụng LPMT tại các nước đang phát triển là tính dễ đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. Việc rút vốn để củng cố khu vực ngân hàng có thể dẫn đến xung đột nguyên tắc ổn định giá cả. Mặt khác cũng cần ghi nhận rằng, sau khi cải tổ khu vực tài chính thì hệ thống ngân hàng có thể sẽ độc lập tương đối, với những tác động của CSTT và như vậy xung đột giữa hai mục tiêu sẽ xảy ra: ổn định giá cả và phục hồi thu nhập của khu vực ngân hàng.

Như vậy, rõ ràng việc áp dụng khuôn khổ CSTT LPMT ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế mới nổi cần phải xem xét rất thận trọng. Khả năng ứng dụng cơ chế này chỉ có thể xảy ra trong trường hợp hoặc có được sự hội tụ đầy đủ điều kiện để thực thi hoặc trong trường hợp cần phải có sự thay đổi do tình trạng quá tuyệt vọng của CSTT hiện hành.

   4. Việc áp dụng khuôn khổ CSTT LPTM ở Việt Nam – khuyến nghị và lộ trình

Kinh nghiệm các nước cho thấy những yếu tố sau đây là quan trọng nhằm giúp cho khuôn khổ IT khả thi hơn và ít thách thức hơn: (i) ổn định giá cả là mục tiêu bao trùm của CSTT; không phải theo đuổi mục tiêu tăng trưởng, cung ứng tiền, tỷ giá danh nghĩa; (ii) không có áp chế tài chính; (iii) NHTW độc lập trong việc sử dụng các công cụ của mình để đạt được mục tiêu lạm phát; (iv) đồng thuận cao ở trong nước về tầm quan trọng của mục tiêu lạm phát; (v) sự hiểu biết cơ bản về cơ chế truyền tải CSTT, và khả năng phù hợp nhằm tác động đến lãi suất ngắn hạn; và (vi) hệ thống tài chính và các thị trường hoạt động tốt, phát triển lành mạnh về chiều rộng lẫn chiều sâu. Điều này thể hiện ở hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, trình độ phát triển của thị trường vốn, nhằm mục đích giảm thiểu xung đột về mục tiêu ổn định tài chính, như hệ số an toàn vốn (CAR) của hệ thống ngân hàng, mức độ vốn hóa của thị trường chứng khoán, khối lượng trái phiếu khu vực tư nhân phát hành so với GDP, trạng thái ngoại hối của NHTM.

Phân tích các yếu tố trên với trường hợp của Việt Nam, có thể thấy, giai đoạn từ này đến năm 2020, tầm nhìn 2030, nếu NHNN xác định ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu bên cạnh việc hướng tới mô hình NHTW hiện đại; từng bước nâng cao địa vị pháp lý và tính độc lập của NHTW2 thì việc xem xét áp dụng khuôn khổ CSTT LPMT sau năm 2020 là khá hợp lý. Vấn đề là xác định mức độ độc lập phù hợp cho NHNN trong 10 năm tới.

Kinh nghiệm cũng cho thấy, thời điểm áp dụng CSTT LPMT ở nhiều nước là khi nền kinh tế đang có mức lạm phát thấp hoặc lạm phát đang được kiểm soát, điều này hỗ trợ việc thực hiện khuôn khổ này một cách hiệu quả. Ở Việt Nam, trong vòng 3 năm trở lại đây, có thể thấy, NHNN đã khá thành công trong việc kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Giai đoạn 2011-2015, từ chỗ diễn biến phức tạp và bất ổn, lạm phát đã giảm nhanh và duy trì xu hướng ổn định, từ 18,12% năm 2011 xuống còn 6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013, 4,09% năm 2014 và ước dưới 2,5% năm 2015, đạt và vượt mục tiêu mà Trung ương Đảng đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2011-2015)3. Lạm phát giai đoạn 2014-2015 đã thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP, thể hiện tính ổn định và bền vững kinh tế vĩ mô, điều mà không có được ở giai đoạn 2005-2010. Các cú sốc về lạm phát cũng đã được khắc phục. Từ năm 2010 về trước, cứ sau 1 hoặc 2 năm lạm phát giảm, lạm phát lại gia tăng nhanh chóng trong những năm tiếp theo. Từ năm 2011 đến nay qui luật này đã được phá bỏ, hình thành nên chuỗi lạm phát giảm từ năm 2011 đến 2015. Từ nước có tỷ lệ lạm phát nhất trong khu vực Asean liên tục qua các năm 2008-2012, từ năm 2013, mức lạm phát của Việt Nam đã về mức trung bình của khu vực. Đây trên thực tế, được coi là một tiền đề vững chắc để hướng tới khuôn khổ lạm phát mục tiêu.

Ngoài ra, điều kiện về chất lượng của hệ thống tài chính cũng sẽ được đáp ứng sau năm 2015, khi việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng về cơ bản hoàn thiện góp phần không nhỏ trong việc cải thiện năng lực của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Mặc dù vậy, trong dài hạn, vẫn cần quan tâm đến việc phát triển hài hòa thị trường vốn bên cạnh thị trường ngân hàng để đáp ứng đủ điều kiện về năng lực của hệ thống tài chính khi áp dụng LPMT. Việc phối hợp tốt giữa CSTT và chính sách tài khóa cũng cần được tăng cường. Hiện nay, mặc dù sự phối hợp giữa CSTT và chính sách tài khóa đã được thực hiện ở một vài khía cạnh song mới dừng lại ở hình thức (thể hiện qua việc CSTT không đủ khả năng chi phối lãi suất của các công cụ nợ Chính phủ; tình trạng chi tiêu công và đầu tư Ngân sách kém hiệu quả v.v…).

Ngoài ra, về mặt kỹ thuật, để đưa ra khuôn khổ CSTT LPMT ít thách thức hơn đòi hỏi NHNN phải có khả năng dự báo lạm phát kỳ vọng thật tốt. Trong thời gian đầu, NHNN có thể đưa ra một khung LPMT thay vì một mục tiêu lạm phát cố định. Việc đưa ra khung chỉ số lạm phát có thể cho phép NHNN linh hoạt ứng phó với những cú sốc và đưa ra lựa chọn tối ưu trong bối cảnh NHNN còn theo đuổi các mục tiêu khác. Thêm nữa, biên độ của khung chỉ số lạm phát báo hiệu trước cho NHNN phạm vi những dao động của chỉ số lạm phát. Sự linh hoạt của NHNN phụ thuộc vào biên độ của khung chỉ số lạm phát, tuy nhiên nếu khung chỉ số lạm phát quá rộng, nó sẽ làm cho những kỳ vọng lạm phát và những cam kết của NHNN không rõ ràng. Trên thực tế, hầu hết NHTW các nước hoặc là đặt điểm mục tiêu, hoặc là vừa đặt điểm mục tiêu và cho phép biên độ giao động là ± 2% hoặc ít hơn.

5. Kết luận

Không có cơ chế nào là tuyệt đối cho mọi quốc gia. Điều quan trọng là quyết tâm chính trị của từng quốc gia trong việc lựa chọn và theo đuổi mục tiêu/khuôn khổ điều hành CSTT của riêng mình, bên cạnh việc xem xét các điều kiện nền tảng then chốt để thực hiện thành công khuôn khổ chính sách đó. Hầu hết các quốc gia đi theo cơ chế LPMT là các nền kinh tế hoàn toàn mở với dòng vốn tự do đồng thời tỷ giá đóng vai trò nổi bật trong cơ chế truyền dẫn CSTT. Phân tích các điều kiện và kinh nghiệm áp dụng LPMT ở các nước phát triển như trên có thể thấy khả năng áp dụng CSTT LPMT tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020 là chưa cao. Tuy nhiên, Việt Nam đã và đang có những tiền đề cơ bản để có thể hướng tới khuôn khổ điều hành này trong 10 năm tới như môi trường vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát thấp và ít biến động, hệ thống tài chính – ngân hàng đang được củng cố và tăng cường năng lực thể chế. Nhiệm vụ đặt ra trong 5 năm tới là xác định được mục tiêu và khuôn khổ điều hành CSTT cho NHTW, từ đó, thiết lập và tạo dựng nền tảng, làm bước đệm vững chắc cho việc thực hiện và chuyển đổi thành công khuôn khổ điều hành chính sách./.

 

Ths. Đỗ Thị Bích Hồng

Viện Chiến lược ngân hàng

 

 

1 Các thông tin mà các NHTW thường công bố nhằm minh bạch hóa điều hành CSTT bao gồm: (i) mục tiêu điều hành (mức lạm phát, hay cung tiền, hay tỷ giá mà CSTT cần đạt được); (ii) dự báo về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tài chính, tiền tệ và khả năng đạt được mục tiêu; (iii) biên bản các cuộc họp và quyết định chính sách; (iv) kết quả bỏ phiếu ra quyết định chính sách; và (v) các giải thích về việc thay đổi chính sách.

2 NHTW được quyền xác định, quyết định và điều tiết lượng tiền cung ứng hàng năm và trong từng thời điểm, được sử dụng công cụ lãi suất và các công cụ tiền tệ khác để tác động vào mục tiêu lạm phát. NHNN Việt Nam hiện chưa được quyết định kế hoạch cung ứng tiền mà thực hiện trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

3 Theo Nghị quyết Trung ương 3 Khóa XI, về các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2011-2015) phấn đấu tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng đến 2015 ở mức khoảng 5-7%.

 


  • aA
  • Categories:
  • Hợp tác nghiên cứu
OTHER NEWS
Tổng quan về công tác hoàn thiện thể thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng giai đoạn 2011-2015
05/01/2025
Tổng quan về công tác hoàn thiện thể thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng giai đoạn 2011-2015
12/10/2016
Tổng quan về công tác hoàn thiện thể thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng giai đoạn 2011-2015
12/10/2016
Vai trò của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
12/04/2016
Vai trò của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
12/04/2016
Một số hạn chế trong việc áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu ở các nước đang phát triển và bài học cho Việt Nam
11/06/2017
Tiền điện tử và ảnh hưởng của tiền điện tử tới CSTT
11/04/2016
Tiền điện tử và ảnh hưởng của tiền điện tử tới CSTT
11/04/2016
Mô hình nào cho NHTW để ổn định tài chính?
09/04/2016
Mô hình nào cho NHTW để ổn định tài chính?
09/04/2016
Showing 1 to 10 of 28
  • 1
  • 2
  • 3
About SBV
  • History
  • Major Responsibilities
  • Management Board
  • Former Governors
CPI
Reserve requirement
Interest Rate
Money Market Operations
  • Notification of New Offering off the State Bank Bills
  • Invitation for Gold Auctions
  • Open Market Operations
  • Auctions for State Treasury bills
System of Credit Institutions
  • Banks
    • Commercial Banks
      • State-owned Commercial Banks
      • Joibt-stock Commercial Banks
      • Wholly Foreign Owned Banks
      • Joint-venture Banks
    • Policy Banks
    • Cooperative Banks
  • Non-Banks Credit Institution
    • Finance Companies
    • Leasing Companies
    • Other non-bank credit Institutions
  • Micro finance Institutions
  • People's Credit Fund
  • Foreign Bank Branches
  • Representative Offices
Search Bar
TIN VIDEO
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TIN ẢNH
Album
Album
TIN ẢNH
Album
Album
Calendar Icon LỊCH LÀM VIỆC CỦA BAN LÃNH ĐẠO Microphone Icon CÁC BÀI PHÁT BIỂU Chart Icon CPI Percentage Icon LÃI SUẤT Money Icon DỰ TRỮ BẮT BUỘC Graduation Icon GIÁO DỤC TÀI CHÍNH Newspaper Icon THÔNG CÁO BÁO CHÍ ẤN PHẨM PHÁT HÀNH
Ngân hàng
ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2025-2030 Chuyển đổi số
Danh Bạ Liên Hệ Phản Ánh Kiến Nghị Đường Dây Nóng
© state bank of vietnam portal
Address: 49 Ly Thai To - Hoan Kiem - Hanoi
Webmaster: (84 - 243) 266.9435
Email: thuongtrucweb@sbv.gov.vn rss
NCSC Certification
State Bank hotline: (84 - 243) 936.6306
Information security: phone number: (+84)84.859.5983, email: antt@sbv.gov.vn
IPv6 Ready
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Digital Bankingtimes

logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
Cổng thông tin điện tử NHNN
Thời báo Ngân Hàng
Tạp chí Ngân hàng

Digital Bankingtimes

Digital Banking Times Logos