Không có lịch sử tín dụng, bạn gần như “vô hình” trong mắt ngân hàng - không vay được tiền, cũng không thể tạo dựng uy tín tài chính. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu giỏ hàng siêu thị, thói quen mua rau hay xúc xích, lại là “chìa khóa” mở ra cánh cửa tín dụng cho hàng triệu người trên thế giới? Một nghiên cứu mới cho thấy: Hành vi tiêu dùng hàng ngày có thể tiết lộ rất nhiều về độ tin cậy tài chính của bạn - nhiều hơn cả điểm tín dụng.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Không có lịch sử tín dụng - Người vay bị “vô hình” trước ngân hàng
Nghiên cứu cho thấy độ tin cậy của người đi vay có thể được đánh giá qua hành vi mua hàng của người đó trong siêu thị. Những người mua sắm vào cùng một thời điểm mỗi ngày và mua thực phẩm lành mạnh hơn cũng có xu hướng kỷ luật hơn với thẻ tín dụng của mình.
Trước khi phê duyệt một khoản vay cho một cá nhân, các ngân hàng đánh giá mức độ tin cậy của người đi vay: liệu người đó có khả năng trả nợ hay không và người đó sẽ tuân thủ kỷ luật như thế nào khi làm việc đó. Trong quá trình đánh giá như vậy (được gọi là chấm điểm), lịch sử tín dụng sẽ giúp ích, bao gồm dữ liệu về các nghĩa vụ cho vay trước đây và việc thanh toán chúng, cũng như thông tin của chính ngân hàng về dòng vốn trong tài khoản của người đi vay tiềm năng. Tuy nhiên, một số lượng đáng kể người tiêu dùng trên khắp thế giới không những không có lịch sử tín dụng, mà còn không có tài khoản ngân hàng. Theo Ngân hàng Thế giới, số người tiêu dùng này bao gồm 1,4 tỷ người trưởng thành, tức khoảng 1/5 người trưởng thành trên thế giới (World Bank, 2021).
Khi cố gắng vay tiền, những người tiêu dùng này rơi vào một vòng luẩn quẩn: ngân hàng từ chối đơn xin vay của họ, không thể đánh giá mức độ tin cậy về tín dụng do thiếu lịch sử tín dụng và họ phải vay tiền để xây dựng lịch sử tín dụng. Vấn đề này phải đối mặt với người dân không chỉ ở các nước đang phát triển, mà cả các nước phát triển. Ví dụ, tại Mỹ, Cục Bảo vệ tài chính người tiêu dùng (CFPB, 2015) ước lượng vào năm 2015 rằng khoảng 1 trong 12 người trưởng thành (26 triệu người) là “những người vô hình trong hệ thống thông tin tín dụng” (“Credit Invisibles”) , bao gồm 30% người tiêu dùng ở các khu vực có thu nhập thấp. Những người như vậy không có lịch sử tín dụng hoặc quá “mỏng”, không đủ dữ liệu để xếp hạng tín dụng và do đó, không thể nhận được khoản vay. Tại Nga, theo Cục Lịch sử tín dụng quốc gia vào năm 2020, tỷ lệ người Nga chưa từng vay ngân hàng là 8–10% (Тretiak, 2020); một cuộc khảo sát của Ngân hàng Otkritie vào năm 2022 cho thấy 15% người Nga không có lịch sử tín dụng (Комарова, 2022).
Mua sắm nói gì về độ tin cậy tài chính của bạn?
Nếu các tổ chức tài chính có thể đánh giá mức độ tin cậy về tín dụng của người đi vay bằng cách sử dụng dữ liệu có sẵn khác không liên quan trực tiếp đến thu nhập hoặc lịch sử tín dụng, thì điều đó có thể cải thiện khả năng cung cấp tín dụng và khả năng tiếp cận tài chính cho người tiêu dùng. Nghiên cứu cho thấy hành vi của người đi vay có thể dự đoán được, chẳng hạn như sử dụng dữ liệu về việc sử dụng điện thoại di động: một người quản lý thành công số dư trên điện thoại di động của mình (có thể coi là tài khoản tài chính) có nhiều khả năng là một người người vay có trách nhiệm và sẽ không để nợ quá hạn. Mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng cũng có thể được dự đoán bằng dấu chân kỹ thuật số (Digital footprint) trực tuyến của họ (Berg et al., 2019).
Độ tin cậy của người đi vay có thể được đánh giá qua thói quen mua sắm trong siêu thị theo một nghiên cứu mới do Jeong Young Lee (Đại học Rice), Junhyuk Yang (Đại học Notre Dame) và Eric Anderson (Đại học Northwestern) thực hiện (Lee et al., 2024). Dữ liệu mua hàng tạp hóa đặc biệt phù hợp để phân tích hành vi của người tiêu dùng vì trong những lần mua hàng như vậy, mọi người đưa ra những lựa chọn lặp đi lặp lại và thường xuyên có thể chỉ ra thói quen. Các tác giả đưa ra giả thuyết rằng hành vi kỷ luật hơn trong mua hàng hằng ngày sẽ tương quan với kỷ luật tài chính của người tiêu dùng khi xử lý thẻ tín dụng.
Mua rau hay xúc xích? Siêu thị tiết lộ rủi ro tín dụng của bạn
Để phân tích, các tác giả đã sử dụng dữ liệu từ một tập đoàn đa quốc gia không được tiết lộ ở châu Á, sở hữu một công ty phát hành thẻ tín dụng và một chuỗi siêu thị. Các nhà nghiên cứu đã phân tích hai bộ dữ liệu - các khoản thanh toán nợ thẻ tín dụng của khách hàng của tập đoàn và việc mua hàng tại siêu thị của chính những khách hàng đó, kết hợp cả hai cơ sở dữ liệu - cho tổng số hơn 30.000 người trong khoảng thời gian 30 tháng từ tháng 1/2017 đến tháng 6/2019. Sau đó, tác giả chia mẫu thành hai khoảng thời gian 15 tháng để xem liệu việc mua hàng tại siêu thị trong khoảng thời gian trước đó có thể dự đoán hành vi tín dụng tiêu dùng trong khoảng thời gian tiếp theo hay không.
Trong toàn bộ mẫu, 81% không phát sinh nợ quá hạn trong kỳ thứ hai, 12% là những người thanh toán không đúng hạn, thỉnh thoảng không trả nợ và 7% không trả được nợ. Một nửa (49,7%) mẫu không có điểm tín dụng.
Giả định của các nhà nghiên cứu đã được xác nhận, đó là những người tiêu dùng mua sắm vào khoảng cùng một thời điểm và vào những ngày nhất định, chi tiêu số tiền tương đối giống nhau mỗi tháng, mua cùng các thương hiệu và danh mục sản phẩm, cũng như chú ý đến các chương trình giảm giá - thường là những người thanh toán đúng hạn các khoản nợ thẻ tín dụng. Trong khi đó, những chủ thẻ tín dụng không trả nợ đúng hạn hoặc rơi vào tình trạng vỡ nợ lại có hành vi mua sắm thiếu ổn định hơn: mua sắm vào các thời điểm khác nhau, lựa chọn thương hiệu đa dạng và không quan tâm đến các chương trình khuyến mãi. Ngay cả sau khi các nhà nghiên cứu đã tính đến điểm tín dụng (đối với những người có điểm số), thu nhập và các yếu tố xã hội - nhân khẩu học khác, mối tương quan giữa thói quen tiêu dùng và mức độ rủi ro tín dụng vẫn được duy trì…
Ngoài ra, các tác giả nhận thấy loại hàng hóa mà một người mua có thể cho biết anh ta thuộc loại người vay nợ như thế nào. Ví dụ: mua thuốc lá, nước tăng lực, xúc xích, thịt hoặc cá đóng hộp có liên quan đến khả năng không trả nợ đúng hạn thẻ tín dụng hoặc vỡ nợ cao hơn. Và việc mua sữa tươi, sữa chua, rau và trái cây, bánh mì khô và nước sốt salad làm từ giấm (được coi là tốt nhất cho sức khỏe) có liên quan đến việc thường xuyên trả nợ thẻ tín dụng đúng hạn.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy, nhìn chung, việc mua các thực phẩm lành mạnh hơn, ít được chế biến trước khi bán, cũng như các loại thực phẩm cần nấu tại nhà hoặc làm nền cho các bữa ăn tự nấu tại nhà (sữa, bột mì, ngũ cốc), dự đoán hành vi chi tiêu có trách nhiệm hơn.
Cơ hội tín dụng hay mối lo đạo đức từ giỏ hàng?
Các tác giả kết luận rằng việc đánh giá mức độ tin cậy về khả năng trả nợ của những người đi vay không có xếp hạng tín dụng bằng cách phân tích dữ liệu về hành vi mua hàng của họ có thể giúp xác định mức độ rủi ro tín dụng của người đi vay tiềm năng. Họ ước tính rằng điều này dẫn đến lợi nhuận cho vay của mỗi người vay tăng lên 1,46% do rủi ro tín dụng trung bình của các đơn đăng ký được phê duyệt giảm xuống. Đặc biệt, xác suất phê duyệt hồ sơ vay vốn đối với người không trả được nợ giảm 7,16 điểm phần trăm.
Tuy nhiên, nếu người đăng ký khoản vay đã có xếp hạng tín dụng, việc tìm kiếm thông tin trong giỏ hàng siêu thị hầu như vô nghĩa: việc thêm dữ liệu này thực sự không ảnh hưởng gì đến xếp hạng hiện tại và không mang lại lợi ích bổ sung cho việc đánh giá mức độ tin cậy về khả năng trả nợ (khả năng sinh lời của khoản vay trên mỗi người vay chỉ tăng 0,025%).
Các tác giả giải thích rằng, những phát hiện này cho thấy người cho vay có thể có động cơ thu thập, thu thập và sử dụng dữ liệu mua hàng tại cửa hàng tạp hóa để đánh giá và sàng lọc những người nộp đơn xin vay không có điểm tín dụng truyền thống. Đổi lại, điều này có thể mang lại lợi ích cho cả người cho vay và người tiêu dùng – “những người vô hình trong hệ thống thông tin tín dụng” và thúc đẩy tài chính toàn diện hơn.
Đồng thời, các câu hỏi nảy sinh và cần nghiên cứu thêm về cách điều chỉnh việc sử dụng dữ liệu đó - theo nghĩa rộng của bất kỳ dữ liệu nào từ các lĩnh vực phi tài chính, các nhà nghiên cứu cảnh báo. Trong đó, có những lo ngại về quyền riêng tư và các vấn đề đạo đức, ví dụ: liệu việc từ chối cấp tín dụng dựa trên việc mua thuốc lá của người xin vay có hợp lý về mặt đạo đức hay không. Các tác giả nghiên cứu kết luận rằng phải đạt được sự cân bằng giữa lợi ích của việc mở rộng khả năng tiếp cận tín dụng và tác hại của việc vi phạm quyền riêng tư để ngăn chặn những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn khi sử dụng dữ liệu đó.
Tài liệu tham khảo
1. Berg, T., Burg, V., Gombović, A., & Puri, M. (2019). On the rise of FinTechs - Credit scoring using digital footprints (Michael J. Brennan Irish Finance Working Paper Series Research Paper No. 18-12). SSRN. https://doi.org/10.2139/ssrn.3163781
2. Consumer Financial Protection Bureau (CFPB). (2015). Data point: Credit invisibles. https://files.consumerfinance.gov/f/201505_cfpb_data-point-credit-invisibles.pdf
3. Lee, J. Y., Yang, J., & Anderson, E. (2024). Using grocery data for credit decisions (Wharton Customer Analytics Research Paper). SSRN. https://doi.org/10.2139/ssrn.3868547
4. World Bank. (2021). The Global Index Database 2021: Financial inclusion, digital payment, and resilience in the age of COVID-19. https://documents.worldbank.org/en/publication/documents-reports/documentdetail/099818107072234182/idu06a834fe908933040670a6560f44e3f4d35b7
Linh Phương