1
QUỐC HỘI KHÓA XV ỦY BAN KINH TẾ *** |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********** Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2024 |
BÁO CÁO TÓM TẮT
thẩm tra đánh giá bổ sung kết quả thực hiện
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2023;
tình hình thực hiện những tháng đầu năm 2024
Thực hiện phân công của UBTVQH, trên cơ sở Báo cáo của Chính phủ, ý kiến Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội1, các thành viên Ủy ban Kinh tế, Kết luận của UBTVQH, Ủy ban Kinh tế xin thay mặt Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban báo cáo Quốc hội một số nội dung chủ yếu sau đây:
1. Đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH và NSNN năm 2023
Năm 2023, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đứng đầu là đ/c Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự đồng hành, giám sát của Quốc hội, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt, sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự ủng hộ của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế - xã hội nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được nhiều kết quả tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm, giải ngân vốn đầu tư công và xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông được đẩy mạnh là những thành tựu nổi bật, tạo tiền đề cho quá trình phục hồi tăng trưởng và phát triển kinh tế. So với báo cáo tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, một số chỉ tiêu đạt kết quả tích cực hơn như: thu NSNN , xuất siêu, thu hút và giải ngân vốn FDI … Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề tiếp tục được quan tâm. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật được chú trọng, hoàn thành khối lượng công việc rất lớn. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều thành tựu.
Bên cạnh kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội năm 2023 cũng còn hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Tăng trưởng kinh tế theo giai đoạn có xu hướng giảm dần, chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế 2023 không đạt mục tiêu, tạo thách thức rất lớn cho mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 2021-2025; chỉ tiêu tăng NSLĐ xã hội năm thứ 3 không đạt. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm tốc mạnh (chỉ tăng 3,62% thấp nhất giai đoạn 2011-2023 trong khi khu vực dịch vụ chuyển biến chậm) và đánh mất vai trò động lực chính của tăng trưởng trong khi khu vực dịch vụ chưa chứng tỏ được vai trò đầu tàu dẫn dắt tăng trưởng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 9,6% (năm 2022 tăng 20%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,1% (năm 2022 tăng 15,8%). Đầu tư tư nhân giảm tốc đáng kể so với giai đoạn trước; số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng. Tăng trưởng tín dụng thấp hơn mục tiêu và chủ yếu tăng tập trung trong tháng cuối năm, làm giảm hiệu quả của tăng trưởng tín dụng đối với tăng trưởng kinh tế; tiếp cận vốn còn khó khăn, lãi suất cho vay giảm nhưng vẫn ở mức cao; xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém còn vướng mắc; nợ xấu có xu hướng tăng. Thị trường vốn còn nhiều vấn đề khiến nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế phần lớn qua kênh tín dụng ngân hàng, làm gia tăng áp lực và tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống ngân hàng.
Thu ngân sách chưa bền vững; phân tích dự báo thu chưa sát, ảnh hưởng đến chất lượng dự toán; nợ đọng thuế còn cao; công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp khó khăn, vướng mắc; việc chuyển nguồn, hủy dự toán khi hết năm ngân sách lớn, trình phương án phân bổ tăng thu, tiết kiệm chi chậm. Công tác xây dựng pháp luật còn hạn chế; nhiều trường hợp gửi hồ sơ chậm, có trường hợp sát kỳ họp; có dự án luật chưa bảo đảm tiến độ theo Kế hoạch 81/KH-UBTVQH15; còn tình trạng bổ sung nhiều dự án Luật vào chương trình, chậm ban hành văn bản hướng dẫn. Chưa khắc phục triệt để tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức né tránh, đùn đẩy công việc, sợ sai, sợ trách nhiệm; phản ứng chính sách có trường hợp chưa kịp thời, linh hoạt, hiệu quả.
Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức vẫn khá cao; chất lượng lao động còn bất cập so với yêu cầu; vẫn còn thiếu thuốc ở một số bệnh viện công lập; tình trạng thừa thiếu cục bộ giáo viên chưa được xử lý dứt điểm, bạo lực học đường, mất vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn diễn ra ở một số nơi. Bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, xử lý thông tin xấu độc nhiều thách thức; tội phạm về trật tự xã hội, tham nhũng, kinh tế, xâm phạm sở hữu trí tuệ, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng diễn biến phức tạp.
2. Tình hình triển khai Kế hoạch phát triển KTXH và NSNN năm 2024
Tình hình thế giới năm 2024 tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo. Ở trong nước, năm 2024 là năm “nước rút”, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, ngay từ đầu năm, Quốc hội đã tổ chức Kỳ họp bất thường lần thứ 5 để xem xét những nội dung quan trọng, trong đó đã sửa đổi, thông qua Luật Đất đai và Luật Các tổ chức tín dụng; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã sát sao chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế phục hồi tích cực, GDP Quý I ước tăng 5,66% so với cùng kỳ năm 2023, cao nhất trong Quý I từ năm 2020 đến nay và vượt kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ. Giải ngân vốn đầu tư công đến ngày 30/4/2024 đạt 17,46% kế hoạch, cao hơn 1,81% cùng kỳ năm 2023, đã đẩy lượng vốn lớn ra nền kinh tế để hỗ trợ cho tăng trưởng. Vốn FDI đăng ký mới đạt hơn 7,1 tỷ USD, tăng 73,2%; vốn FDI thực hiện đạt gần 6,3 tỷ USD, tăng 7,4%. Thu NSNN 4 tháng ước đạt 43,1% dự toán, tăng 10,1% so với cùng kỳ; nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài trong giới hạn cho phép. Xuất nhập khẩu hàng hóa 4 tháng tăng trên 15%; xuất siêu hơn 9 tỷ USD. Hoạt động sản xuất, kinh doanh được duy trì, một số lĩnh vực tăng khá, khu vực công nghiệp và xây dựng dần lấy lại được đà tăng trưởng. Khách quốc tế đạt hơn 6,2 triệu lượt người, tăng 68,3% so với cùng kỳ và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2019; du lịch nội địa phát triển, đặc biệt tăng cao ấn tượng dịp nghỉ lễ 30/4 - 01/5 nhờ nhiều yếu tố, trong đó có hiệu ứng tích cực từ nhiều tuyến cao tốc được quyết liệt đẩy mạnh xây dựng, hoàn thành đưa vào sử dụng trong thời gian qua. Thị trường tiền tệ, tín dụng cơ bản ổn định. Công tác bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được các cấp, các ngành, các địa phương quan tâm, thực hiện kịp thời. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, thông tin tuyên truyền tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh. Quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác đối ngoại, nhất là các hoạt động đối ngoại cấp cao của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước được triển khai chủ động, tích cực, đạt được nhiều kết quả thiết thực.
Bên cạnh những kết quả đạt được, diễn biến tình hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2024 cũng bộc lộ những khó khăn, thách thức. Để nhìn nhận đầy đủ, toàn diện hơn tình hình phát triển kinh tế - xã hội những tháng đầu năm, đề nghị Chính phủ quan tâm, đánh giá kỹ hơn một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng GDP Quý I/2024 dù cải thiện nhưng chưa quay lại quỹ đạo cần thiết, chưa đủ để tạo ra những bước đột phá cho phát triển bền vững và chưa thể giúp nước ta thoát khỏi nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Các cực tăng trưởng chưa thực sự phát huy được vai trò liên kết và thúc đẩy các vùng, đồng thời, cũng chịu tác động từ sự suy giảm chung của kinh tế trong nước và thế giới. Tổng cầu trong nước yếu, chậm hồi phục trong bối cảnh áp lực lạm phát có dấu hiệu tăng; cầu tiêu dùng tăng 5,3% thấp hơn kỳ vọng, cầu đầu tư tư nhân tăng thấp 4,2%; giá vé máy bay tăng cao tác động tiêu cực đối với tăng trưởng du lịch nội địa; tình trạng nhập siêu dịch vụ chưa được cải thiện; hầu như toàn bộ khâu vận chuyển hàng hóa, dịch vụ logistics, bảo hiểm vận tải đều do doanh nghiệp nước ngoài đảm nhận. Ngành khai khoáng suy giảm trong khi công nghiệp chế biến, chế tạo chưa lấy lại đà tăng trưởng cao như giai đoạn trước dịch Covid-19.
Thứ hai, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn; số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (86,4 nghìn doanh nghiệp) cao hơn số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường (81,3 nghìn doanh nghiệp); cầu nội địa và cầu quốc tế thấp cùng với tính cạnh tranh của hàng trong nước cao là những yếu tố chính ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến, chế tạo; chi phí vận tải tăng khá mạnh, nhất là đường biển, tỷ giá biến động bất thường trong những tháng đầu năm cũng là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp, trong khi đó doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn đối với các quy định về phòng cháy, chữa cháy2.
Thứ ba, thị trường tài chính, tiền tệ còn tiềm ẩn rủi ro, thách thức, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng. Tăng trưởng tín dụng thấp3 trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đã giảm cho thấy khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp còn hạn chế; tín dụng xanh cho phát triển bền vững còn gặp nhiều thách thức. Tỷ giá tăng cao ngoài dự báo kể từ đầu năm, thậm chí có thời điểm đã vượt 25 nghìn đồng/USD4, dự báo tiếp tục chịu áp lực tăng trong thời gian tới; quản lý thị trường vàng còn nhiều bất cập, giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch lớn, tình trạng buôn lậu vàng diễn biến phức tạp. Áp lực đáo hạn TPDN cao với khối lượng TPDN riêng lẻ đáo hạn trong năm 2024 khoảng 300 nghìn tỷ đồng (cao nhất trong 3 năm gần đây) trong đó nhóm BĐS chiếm khoảng 44,2%5. Thị trường TPDN vẫn chưa thể phục hồi hoàn toàn khi các nhà đầu tư chưa có đủ niềm tin, gia tăng áp lực trả nợ các trái phiếu đến hạn của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm bất động sản, càng gây khó khăn đến hoạt động kinh doanh. Thu ngân sách chưa bền vững; phân tích dự báo thu chưa sát, ảnh hưởng đến chất lượng dự toán; nợ đọng thuế còn cao; công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp khó khăn, vướng mắc.
Thứ tư, việc triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025 và phương án xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, các dự án, công trình chậm tiến độ, đầu tư kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài còn chậm. Nhiều dự án cao tốc, đường giao thông trọng điểm, nhất là tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long và khu vực phía Nam bị thiếu cát san lấp, ảnh hưởng đến tiến độ thi công cũng như việc giải ngân vốn đầu tư công. Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại một số địa phương còn chậm; việc di dời hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là đường điện cao thế tiến độ chưa đáp ứng yêu cầu.
Thứ năm, thị trường BĐS có tín hiệu phục hồi nhưng còn khó khăn nhất là về quy trình, thủ tục phát triển các dự án nhà ở xã hội, xuất hiện tình trạng “lách luật” để đầu tư, mua bán căn hộ nhà ở xã hội; tiến độ triển khai gói cho vay nhà ở xã hội 120 nghìn tỷ đồng còn chậm, chưa đáp ứng kỳ vọng đề ra6; doanh nghiệp BĐS tiếp tục đối mặt khó khăn về thanh khoản, dòng tiền. Giá nhà chung cư, kể cả nhà ở xã hội tại một số địa bàn tăng cao đột biến do nguồn cung khan hiếm, cơ cấu sản phẩm trên thị trường mất cân đối. Giá đất nền có dấu hiệu tăng trở lại ở các thành phố lớn, thậm chí tăng giá cao cục bộ do đầu cơ gây ảnh hưởng đến nhu cầu về nhà ở của người dân, người lao động. Xét ở khía cạnh hiệu quả kinh tế - xã hội, tình trạng đầu cơ đất đai dẫn đến một số hệ lụy: (i) người có nhu cầu thực (để ở, để sản xuất, kinh doanh) không thể tiếp cận đất đai trong khi đất đai bị bỏ hoang (do bị đầu cơ); (ii) nguồn lực xã hội thay vì dành cho đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm lại bị “chôn” vào đất, làm tăng chi phí của doanh nghiệp, giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; (iii) người có nhu cầu mua nhà ở, đất ở thực sự đang phải trả một khoản tiền lớn cho giới đầu cơ, người nghèo đang phải chi trả nhiều hơn cho nhu cầu về nhà ở, khiến tình trạng gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn. Do đó, có ý kiến đề nghị Chính phủ đánh giá và có giải pháp ổn định tình hình, đồng thời đề nghị Chính phủ chỉ đạo thanh tra toàn diện công tác phát triển nhà ở xã hội trong thời gian qua, xác định vướng mắc, bất cập, vi phạm, tiêu cực để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Thứ sáu, cải cách thủ tục hành chính còn một số tồn tại gây khó khăn cho doanh nghiệp, người dân; tình trạng trễ hẹn trong giải quyết và trả kết quả giải quyết hồ sơ vẫn còn xảy ra ở các cấp hành chính. Tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm chưa được xử lý dứt điểm, kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi còn chưa nghiêm; tình trạng cán bộ, công chức, viên chức thôi việc vẫn diễn ra. Một số vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội còn tồn tại, hạn chế như mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục; việc huy động các nguồn lực đầu tư, khai thác, phát huy hệ thống thiết chế văn hóa từ huyện đến cơ sở còn nhiều hạn chế; tỷ lệ thanh thiếu niên, học sinh sử dụng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng tăng cao... Thị trường lao động còn tiềm ẩn rủi ro, xuất hiện tình trạng lao động xin nghỉ việc hàng loạt do tâm lý e ngại chính sách đối với người lao động thay đổi; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Tội phạm về trật tự xã hội còn xảy ra nhiều, tội phạm về tham nhũng, kinh tế tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Xảy ra nhiều vụ tai nạn lao động, cháy nổ, ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng và tài sản của người dân, doanh nghiệp.
Ủy ban Kinh tế cho rằng nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua có nguyên nhân chủ quan và khách quan. Tác động, ảnh hưởng của các yếu tố bất lợi từ bên ngoài và những hạn chế, bất cập từ nội tại nền kinh tế tích tụ trong thời gian dài chưa được xử lý hiệu quả đã ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là quy mô nền kinh tế còn nhỏ, có độ mở lớn, sức chống chịu và năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Bên cạnh đó, còn có những hạn chế, bất cập, yếu kém về cơ cấu kinh tế, năng lực sản xuất, điểm nghẽn tăng năng suất lao động... Công tác dự báo còn hạn chế, vai trò quản lý nhà nước, phản ứng chính sách, sự phối hợp của một số Bộ, ngành trong một số trường hợp chưa kịp thời, có nơi, có lúc còn bị động, hiệu quả chưa cao. Đề nghị Chính phủ nhận diện đầy đủ những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế của nền kinh tế, làm rõ nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, bài học kinh nghiệm để có giải pháp khắc phục.
3. Về một số nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới
Để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu, nhiệm vụ khác theo Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và các nghị quyết khác của Quốc hội, trong những tháng còn lại của năm 2024, Chính phủ cần tiếp tục triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Đồng thời, Ủy ban Kinh tế nhấn mạnh một số trọng tâm ưu tiên trong điều hành kinh tế vĩ mô, cụ thể như sau:
(1) Tăng cường năng lực nội sinh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; kiểm soát lạm phát, tỷ giá không để xảy ra các cú sốc ảnh hưởng đến đời sống Nhân dân, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả. Tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; củng cố, giữ vững vai trò và làm mới các động lực tăng trưởng chính, động lực tăng trưởng truyền thống, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Có giải pháp hiệu quả tháo gỡ điểm nghẽn về năng suất lao động; thúc đẩy chuyển đổi, sử dụng năng lượng sạch, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ; triển khai nhanh, hiệu quả Quy hoạch, Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII. Đảm bảo cung ứng các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là điện, xăng, dầu, không để tái diễn tình trạng thiếu điện ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống Nhân dân.
(2) Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thực sự chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả. Duy trì ổn định thanh khoản và giữ vững an toàn hệ thống ngân hàng; triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, xử lý các ngân hàng yếu kém; có giải pháp căn cơ, bền vững hướng dòng tiền quay trở lại sản xuất kinh doanh, tiếp tục có giải pháp hạ lãi suất cho vay. Tăng cường quản lý, giám sát thị trường chứng khoán, thị trường TPDN, thị trường BĐS cùng với các có giải pháp để ổn định và thúc đẩy các thị trường phát triển, củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư. Phối hợp hài hòa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng cường quản lý, chống thất thu, chuyển giá, gian lận thương mại; tích cực thu hồi nợ thuế; điều hành chi bám sát dự toán, tiết kiệm, hiệu quả, dành nguồn lực cho các dự án trọng điểm quốc gia, cải cách tiền lương, an sinh xã hội; chủ động kiểm soát, ứng phó với các rủi ro, đảm bảo cân đối NSNN, bội chi, nợ công; tiết kiệm chống lãng phí, tiêu cực trong quản lý, sử dụng NSNN.
(3) Có giải pháp cụ thể để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia; rà soát và có giải pháp hiệu quả để thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng theo phương thức đối tác công tư. Giải quyết dứt điểm khó khăn, vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, di dời hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là di dời đường điện cao thế, tình trạng thiếu hụt đất đắp, cát san nền. Triển khai hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực các cơ chế chính sách đặc thù cho các dự án giao thông, các dự án quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu quốc gia.
(4) Ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn và triển khai hiệu quả các Luật, Nghị quyết Quốc hội đã ban hành; chuẩn bị sớm, bảo đảm tiến độ, chất lượng các dự án Luật đã đưa vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2024.
(5) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp, người dân; đẩy mạnh phân cấp phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát; tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính. Thực hành tiết kiệm, phòng chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức.
(6) Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; thực hiện tốt và hiệu quả việc cải cách tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách cho người có công và các chính sách giảm nghèo bền vững. Giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế; tháo gỡ vướng mắc để triển khai hiệu quả chính sách nhà ở xã hội; tiếp tục quan tâm đến lĩnh vực văn hóa, giáo dục, dạy nghề. Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, tình trạng sạt lở, xâm ngập mặn, nước biển dâng, tình trạng ô nhiễm không khí, môi trường tại các đô thị lớn; tình hình an ninh nguồn nước, nhất là tại khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. Bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Trên đây là Báo cáo tóm tắt thẩm tra đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và NSNN năm 2023, tình hình thực hiện những tháng đầu năm 2024. Ủy ban Kinh tế xin báo cáo Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.
ỦY BAN KINH TẾ
1 Đến nay, Uỷ ban Kinh tế đã nhận được báo cáo tham gia thẩm tra của Thường trực các Ủy ban: Pháp luật, Tư pháp, Xã hội, Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hội đồng Dân tộc, Văn hóa, Giáo dục, Đối ngoại, Tài chính, Ngân sách.
2 Theo Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, doanh nghiệp đang đối mặt một số khó khăn, vướng mắc về vấn đề phòng cháy, chữa cháy. Cụ thể, Hiệp hội cho rằng quy chuẩn về phòng cháy, chữa cháy quy định tại Nghị định số 136/2020/NĐ-CP ngày 24/11/2020 của Chính phủ là quá cao, chưa phù hợp, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp; Thông tư số 06/2022/TT-BXD ngày 30/11/2022 ban hành QCVN về an toàn cháy, tại Bảng 6 có quy định phân nhóm nhà dựa trên tính nguy hiểm cháy theo công năng quy chuẩn, một số công trình bệnh viện được xếp vào nhóm EL.1 với chiều cao tối đa công trình là 9 tầng (28m), quy định này gây khó khăn và không khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vì để tăng hiệu năng sử dụng đất thì tăng chiều cao các công trình này.
3 Trong đó 2 tháng đầu năm tăng trưởng âm và có sự phục hồi nhẹ trong tháng 3. Đến 05/4/2024 tín dụng tăng thấp (0,95%)
4 Tỷ giá bán ra ngày 17/4 của ngân hàng Vietcombank, Vietinbank là 25.348 đồng/USD, BIDV là 25.346 đồng/USD.
5 Nguồn: Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia.
6 Đến nay mới có 29/63 UBND tỉnh công bố 69 dự án tham gia Chương trình nhưng chỉ có 30 dự án có nhu cầu vay vốn, tổng nhu cầu vay vốn là hơn 30.000 tỷ đồng. Các ngân hàng thương mại đã cam kết cấp tín dụng cho 15 dự án với số tiền cam kết là khoảng 7.000 tỷ đồng; tổng số tiền đã giải ngân đạt 640 tỷ đồng cho 08 chủ đầu tư và giải ngân 6 tỷ đồng đối với người mua nhà tại 03 dự án.