Tiền điện tử
Khái niệm “tiền điện tử” hay “ electronic money “ hiện nay rất đa dạng, xuất hiện với nhiều hình thái khác nhau, và trong tương lai hoàn toàn có thể phát triển thành một dạng đơn vị tiền tệ theo đúng nghĩa. Vì thế, những tác động của tiền điện tử tới CSTT cũng phức tạp không kém. Ảnh hưởng của tiền điện tử tới CSTT có thể nằm bất kì đâu trên một thước đo, với một đầu là “hoàn toàn không tác động” và đầu còn lại là “có tác động to lớn, thậm chí có thể tới mức xóa bỏ CSTT”. Ngay cả khi đồng tiền của họ là không thể bị thay thế đối với nền kinh tế, các NHTW cũng không thể xem nhẹ tiền điện tử và những tác động nó mang lại đối với CSTT.
Mặc dù vậy, khối lượng tiền điện tử lưu hành hiện nay còn rất nhỏ nếu so với những loại hình tiền tệ khác. Vì thế, rất khó để đánh giá một cách chính xác tác động của tiền điện tử tới CSTT trong thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, các nhà kinh tế và các NHTW vẫn cần phải dự báo trước và sẵn sàng để đón nhận những tác động của tiền điện tử khi nó trở nên phổ biến hơn trong tương lai.
Tiền điện tử là gì?
Theo khái niệm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu: “Tiền điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa là sự lưu trữ điện tử của một giá trị tiền tệ trên một thiết bị kĩ thuật mà có thể được sử dụng một cách rộng rãi để thanh toán cho một thể nhân mà không phải là nhà phát hành, trong đó không nhất thiết cần tới sự tham gia trực tiếp của các tài khoản ngân hàng trong giao dịch…” [Ngân hàng Trung Ương Châu Âu-2000]. Cần lưu ý rằng, “thiết bị kĩ thuật” ở đây không nhất thiết phải là một thiết bị vật lý. Điểm quan trọng trong định nghĩa này là việc thanh toán phải được chấp nhận bởi một thể nhân mà không phải là nhà phát hành. Có nghĩa là, một số công cụ như thẻ điện thoại trả trước chỉ được chấp nhận bởi các công ty điện thoại phát hành ra nó không được coi là tiền điện tử.
Thêm một định nghĩa của hội đồng Bank for International Settlement về tiền điện tử như sau:
“ Tiền điện tử được định nghĩa là giá trị được lưu giữ hoặc sản phẩm trả trước trong đó thông tin về khoản tiền hoặc giá trị khả dụng của khách hàng được lưu giữ trong một thiết bị thuộc sở hữu của khách hàng. Định nghĩa này bao gồm cả thẻ trả trước (còn được gọi là ví điện tử) và các sản phẩm trả trước dưới dạng phần mềm , sử dụng các hệ thống máy tính như Internet (còn được gọi là tiền mặt điện tử - digital cash). “ [CPSS, 2000]
Từ các định nghĩa trên, có thể đưa ra định nghĩa một cách khái quát về tiền điện tử như sau: “ Tiền điện tử là một phương pháp thanh toán được tạo ra với mục đích cuối cùng là để giao dịch thông qua một phương tiện trung gian điện tử.”
Các loại tiền điện tử trên thế giới hiện nay
Với những tiện ích mà tiền điện tử mang lại, cùng với sự phát triển của CNTT, hiện nay trên thế giới đã xuất hiện các dạng tiền điện tử sau:
Tiền điện tử offline
Một trong những dạng tiền điện tử là tiền điện tử offline, ví dụ như thẻ trả trước hoặc thẻ thông minh. Thẻ trả trước là loại thẻ được ghi một giá trị nhất định lên nó, thông qua các hình thức như từ, điện hoặc quang và thường trông giống như một chiếc thẻ tín dụng. Khi khách hàng sử dụng, thiết bị chấp nhận thẻ sẽ xóa đi một phần tương ứng với lượng tiền sử dụng trên dải quang, từ hoặc điện tử. Tuy nhiên, phần lớn các thẻ trả trước này thường chỉ được sử dụng với một mục đích duy nhất (ví dụ thẻ điện thoại trả trước, phát hành bởi các công ty viễn thông và chỉ có thể sử dụng để gọi điện tại các bốt điện thoại công cộng) và do đó không thể được coi là một dạng tiền điện tử hoàn chỉnh.
Thẻ thông minh là dạng mở rộng của thẻ trả trước. Cũng giống như thẻ trả trước, thẻ thông minh lưu giữ một giá trị nhất định, nhưng khác với thẻ trả trước, thẻ thông minh thường có chip điện tử. Do đó, thẻ thông minh có thể được dùng để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Có thể coi đây là một dạng tiền điện tử, vì khi người dùng mua thẻ thông minh, họ đã chuyển tiền của mình từ dạng tiền truyền thống (tiền mặt, tài khoản thanh toán, xu, … ) sang tiền điện tử.
Tiền điện tử online (ví điện tử)
Hiện nay, có rất nhiều website cung cấp dịch vụ thanh toán online mà không thông qua tài khoản ngân hàng. Những website này hoạt động theo hình thức như sau: khách hàng có thể đăng kí tài khoản và được cung cấp một “ví điện tử” với mã bảo mật và thông tin cá nhân. Khách hàng sau đó có thể chuyển tiền của mình từ tài khoản ngân hàng vào “ví điện tử” này và sau đó có thể trực tiếp sử dụng tiền từ “ví điện tử” của mình để mua hàng trực tuyến tại cửa hàng hoặc tham gia những hình thức mua bán trực tiếp giữa khách hàng với nhau trên các trang web đấu giá, mua bán như eBay hay Alibaba. Tiêu biểu nhất và phổ thông nhất trong các website này là PayPal, ngoài ra còn có thêm rất nhiều các website tương tự và độ phổ biến của chúng đang ngày càng tăng. Ban đầu, các loại tiền điện tử này thường chỉ được sử dụng để mua bán giữa khách hàng với nhau, nhưng càng ngày chúng càng được chấp nhận rộng rãi bởi các doanh nghiệp, các tổ chức bán hàng trực tuyến.
Tiền mặt điện tử (digital cash)
Tiền mặt điện tử được định nghĩa như sau:
“ Một hệ thống cho phép một người có thể chi trả cho hàng hóa dịch vụ bằng việc chuyển một dãy số từ máy tính này sang máy tính khác. Giống như số seri trên một tờ tiền thật, dãy số của tiền mặt điện tử là độc nhất. Mỗi dãy số được phát hành bởi một ngân hàng và đại diện cho một lượng tiền nhất định. Một trong những đặc điểm quan trọng của tiền kĩ thuật số, cũng giống như tiền mặt thông thường, là tính vô danh và tính tái sử dụng. Đó là, khi tiền đã được chuyển từ người mua sang người bán, sẽ không có cách nào để có được thông tin từ người mua nữa và chứng chỉ tiền kĩ thuật số có thể được sử dụng nhiều lần, giống như tiền mặt thông thường. Đây là điểm mấu chốt để phân biệt giữa tiền kĩ thuật số và hệ thống thẻ tín dụng. “ [Webopedia]
Từ định nghĩa này cho thấy, để tiền điện tử được coi là tiền mặt điện tử, cần phải thỏa mãn 2 yếu tố: tính vô danh và có thể được luân chuyển từ người này sang người khác.
Tác động của tiền điện tử tới CSTT
Như đã đề cập ở trên, cách nhìn về tác động của tiền điện tử tới CSTT là rất đa dạng. Có ý kiến cho rằng, tiền điện tử về bản chất không khác gì một loại tiền tệ thông thường đang tồn tại hiện nay, do đó tiền điện tử hoàn toàn không có ảnh hưởng gì tới CSTT. Trong khi đó, lại có ý kiến hoàn toàn trái ngược, cho rằng tiền điện tử có ảnh hưởng rất lớn tới CSTT, thậm chí có thể dẫn tới xóa bỏ tác dụng của CSTT: “Tuy nhiên, ngay cả khi tiền điện tử khó có thể thay thế tiền tệ của một quốc gia, các NHTW khó có thể phớt lờ sức ảnh hưởng của nó. Ví dụ, tiền điện tử có thể làm cho việc giao dịch ngoại hối trở nên hết sức dễ dàng. Những dịch vụ như PayPal hoặc e-gold làm cho người dân của một quốc gia dễ dàng quy đổi tiền của mình sang một loại ngoại tệ mạnh hơn. Tình trạng đô la hóa có thể diễn ra chỉ đơn giản bằng một vài cú nhấp chuột. Đến một lúc nào đó, sự phát triển của công nghệ thông tin có thể dẫn tới một hệ thống tiền tệ toàn cầu với những giao dịch điện tử diễn ra theo thời gian thực. Việc các NHTW trở nên bất lực trong việc kiểm soát hệ thống tiền tệ quốc gia có thể một ngày nào đó trở thành hiện thực”. [Economist, 2000]
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đưa ra 3 khuyến nghị về tiền điện tử đối với các NHTW:
Đối với điều đầu tiên, ECB cho rằng, tiền điện tử phải được quy đổi bằng tiền thực tế, phát hành bởi NHTW sở tại. Tuy nhiên, điều này bỏ qua những vấn đề đối với các nhà phát hành nước ngoài, đồng thời cũng không tính đến khả năng người dân lựa chọn một loại tiền tệ khác thay vì tiền chính thức được NHTW phát hành, tương tự như tình trạng đô-la hóa như đã xảy ra ở một số nước.
Tác động thứ hai- tác động tới các công cụ CSTT- được chú ý nhiều nhất. Nếu tiền điện tử được phát hành bởi một tổ chức không phải ngân hàng, cung tiền sẽ tăng lên tạm thời do có sự xuất hiện thêm của tiền điện tử, trong khi đó lượng tiền cũ không bị mất đi mà chỉ được chuyển đổi sở hữu từ khách hàng sang tổ chức phát hành.
Một trong những điểm quan trọng quyết định ảnh hưởng của tiền điện tử đối với CSTT là tổ chức phát hành. Nếu tổ chức phát hành là các ngân hàng, CSTT không hề bị ảnh hưởng vì tiền điện tử lúc này chỉ là 1 dạng khác của tiền mặt thông thường. Nếu tổ chức phát hành là các tổ chức phi ngân hàng nội địa, tiền điện tử có thể được coi như một dạng séc du lịch và được tính như một phần của cung tiền. Tuy nhiên, vấn đề thật sự là khi tổ chức phát hành là một tổ chức phi ngân hàng tại nước ngoài. Lúc này, NHTW hoàn toàn không có thẩm quyền đối với những tổ chức này. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới cả việc tính toán và đo lường cung tiền, cũng như hiệu quả hoạt động của các công cụ CSTT. Tình trạng này đã xảy đến với một số quốc gia mà đồng đô-la hay ngoại tệ mạnh được lưu hành như một hình thức thanh toán thay thế.
Tanaka [1996] nhấn mạnh vấn đề này là một trong những yếu tố chủ chốt:
“Đặc điểm quan trọng nhất của tiền mặt điện tử là tính xuyên quốc gia: tiền mặt điện tử không có biên giới, hay nói cách khác là không chịu sự kiểm soát của bất kì một NHTW nào. Nếu tiền mặt điện tử chỉ được lưu hành trong một phạm vi biên giới quốc gia và được kiểm soát bởi một NHTW hay một cơ quan kiểm soát tiền tệ trung ương, thì sẽ không có vấn đề gì đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, tiền mặt điện tử hoàn toàn không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia. Điều này có cả mặt tích cực cũng như tiêu cực. Mặt tích cực ở chỗ, thanh toán đa quốc gia sẽ trở nên cực kì thuận lợi. Tuy nhiên, mặt trái của nó là có thể gây ảnh hưởng xấu tới sự ổn định của hệ thống tiền tệ. Điều này sẽ gây ra xung đột giữa nhà cung cấp/khách hàng của tiền mặt điện tử và các NHTW”
Trong vấn đề này, dạng tiền điện tử cũng ảnh hưởng tới tác động của tiền điện tử đối với CSTT. Ở dạng offline, tiền điện tử có thể dễ kiểm soát hơn đối với NHTW. Các cửa hàng sẽ ưu tiên các hệ thống nội địa, trong khi đó khách hàng cũng sẽ chọn những hệ thống nội địa vì tính dễ được chấp nhận. Ngược lại, đối với tiền điện tử online, do không hề có giới hạn vật lý về phương thức cũng như công cụ thanh toán, người dùng có thể tùy ý lựa chọn dịch vụ nào phù hợp nhất với họ. Do đó, người dùng có thể lựa chọn những nhà cung cấp nằm ngoài sự kiểm soát của các NHTW, gây ra những vấn đề như đã đề cập ở trên. Hiện nay, tiền điện tử online đang dần chiếm ưu thế hơn so với tiền điện tử offline do sự phổ biến, tiên tiến và an toàn của công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông.
Tiền điện tử tại Việt Nam
Tại Việt Nam hiện nay, tiền điện tử đã bắt đầu xuất hiện dưới dạng ví điện tử. Đến nay, NHNN đã cấp phép cho 9 tổ chức phi ngân hàng thực hiện thí điểm dịch vụ ví điện tử thông qua 33 TCTD, bao gồm: MobiVi, VietUnion, VNPay, VinaPay, Smartlink, M_Service, VNPT-EPAY, PeaceSoft và ECPay. Đến 31/12/2013, tổng số ví điện tử phát hành đạt trên 1,84 triệu; lượng giao dịch đạt 45,3 triệu với giá trị 23.350 tỷ đồng. Sau một thời gian triển khai thí điểm, các dịch vụ do các tổ chức trên cung cấp đạt được những kết quả nhất định, khẳng định những ưu thế về tính năng, sự tiện lợi, nhanh chóng, an toàn, ngày càng nhận được sự quan tâm từ phía các TCTD, đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ và người sử dụng; dịch vụ trung gian thanh toán đã tạo thêm các kênh thanh toán mới, tiện ích, tiện lợi, bước đầu góp phần làm thay đổi thói quen thanh bằng toán tiền mặt trong dân cư. Ngoài ví điện tử, tại Việt Nam chưa có hình thức tiền điện tử offline nào.
Ví điện tử nói riêng và tiền điện tử nói chung là một phần quan trọng trong chiến lược đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ, bên cạnh hệ thống thanh toán qua thẻ ngân hàng truyền thống. Nó đang ngày càng chứng tỏ được tầm quan trọng của mình trong thanh toán giao dịch mua bán hàng hóa, đặc biệt là các dịch vụ mua bán hàng hóa online. Các ngân hàng cũng đang tăng cường hợp tác với các tổ chức phát hành ví điện tử, ví dụ như Vietcombank đã phối hợp với M_Service để triển khai ví điện tử MoMo. Ví điện tử MoMo là một ví tiền trên điện thoại di động mạng VinaPhone, cho phép khách hàng nạp tiền điện thoại trả trước cho tất cả các mạng, chuyển tiền giữa các ví Momo, nạp tiền tài khoản Games; Thanh toán các hóa đơn cước điện thoại cố định và ADSL của VNPT, cước điện thoại trả sau của MobiFone, VinaPhone, Sfone, Thanh toán hóa đơn cước Internet của FPT, hóa đơn trực tuyến và một số dịch vụ GTGT khác.
Tuy nhiên, cơ chế giám sát đối với ví điện tử nói riêng và tiền điện tử nói chung còn chưa thật sự rõ ràng. Tiền điện tử chỉ được đề cập tới một cách khái quát trong nghị định 101/2012/NĐ-CP của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó tiền điện tử có thể coi là nằm trong “các dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán”. NHNN cũng chưa có văn bản quy phạm pháp luật chính thức đối với tiền điện tử, mà chỉ có Dự thảo Thông tư về trung gian thanh toán.
Những vấn đề đối với tổ chức phát hành nước ngoài, nhìn chung tại Việt Nam hiện nay là chưa có. Các tổ chức cung cấp dịch vụ tiền điện tử lớn trên thế giới như PayPal hiện không hỗ trợ hoặc hỗ trợ không đầy đủ đối với khách hàng tại Việt Nam, do tính kết nối của hệ thống tài chính Việt Nam với thế giới là chưa cao. Khách hàng tại Việt Nam nếu muốn vẫn có thể sử dụng tiền điện tử tại nước ngoài, tuy nhiên tính tiện ích rất thấp và các dịch vụ thương mại điện tử nội địa vẫn chủ yếu chấp nhận các tổ chức phát hành trong nước. Có thể nói rằng, tiền điện tử tại Việt Nam hầu như nằm trong khu vực nội địa, vì thế những nguy cơ đối với CSTT là không đáng kể. Tuy nhiên khi hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển và hội nhập hơn với thế giới thì điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. NHNN và Chính phủ cần có những bước chuẩn bị sẵn sàng, vì tiền điện tử đang ngày càng trở nên phổ biến ở mức độ toàn cầu.
Kết luận
Tổ chức phát hành tiền điện tử là một trong những nhân tố chính tác động tới mức độ ảnh hưởng của tiền điện tử tới CSTT. Nếu tổ chức phát hành là một ngân hàng, tiền điện tử không khác gì so với tiền truyền thống. Nếu tổ chức phát hành là một tổ chức phi ngân hàng nội địa, tiền điện tử vẫn có thể được kiểm soát như một phần của cung tiền nội địa. Nếu tiền điện tử là do một tổ chức nước ngoài nằm ngoài thẩm quyền của NHTW thì nó sẽ gây ảnh hưởng tới cả mức độ chính xác trong việc đo lường các chỉ số tiền tệ cũng như hiệu quả hoạt động của các công cụ CSTT. Với vai trò ngày càng gia tăng của tiền điện tử, đặc biệt là tiền điện tử online trong mua bán hàng hóa, các NHTW cần có những bước chuẩn bị hợp lý để đối phó với tác động của tiền điện tử tới CSTT, đồng thời phải những chính sách để đảm bảo tính an toàn, lành mạng cho các giao dịch mua bán bằng tiền điện tử.
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Thế Phong
Viện Chiến lược ngân hàng