CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Số: 254 /BC-CP |
Hà Nội, ngày 09 tháng 7 năm 2018 |
BÁO CÁO
Việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề
và chất vấn lĩnh vực ngân hàng
từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV
____________
Kính gửi:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Hội đồng Dân tộc;
- Ủy ban Kinh tế của Quốc hội;
- Các vị Đại biểu Quốc hội.
A. ĐỀ DẪN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Thực hiện các nhiệm vụ được giao tại các nghị quyết của Quốc hội từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động nghiên cứu, rà soát, phân công các đơn vị chức năng triển khai quyết liệt, có hiệu quả những nội dung có liên quan đến lĩnh vực Ngân hàng. Trong đó, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) chủ động, linh hoạt, thận trọng; phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Điều hành các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng và linh hoạt điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tiễn, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân.
3. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD); triển khai hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 nhằm xử lý căn bản nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường; Từng bước lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các TCTD; Tiếp tục phát huy vai trò của VAMC trong việc xử lý nợ xấu.
4. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng; triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
5. Triển khai tích cực Đề án thanh toán không dùng tiền mặt; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng.
Đến nay, về cơ bản NHNN đã đạt được mục tiêu Quốc hội và Chính phủ đề ra. Chủ động, linh hoạt trong điều hành CSTT phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, góp phần quan trọng vào việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Thành công trong việc giữ ổn định mặt bằng lãi suất trong điều kiện có nhiều sức ép tăng; lãi suất cho vay lĩnh vực ưu tiên tiếp tục giảm; thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao, niềm tin vào VND được củng cố; tăng trưởng tín dụng gắn với chất lượng tín dụng, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực là động lực cho tăng trưởng. Công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu được triển khai mạnh mẽ, theo đúng lộ trình, kế hoạch, đạt được kết quả ban đầu quan trọng: Năng lực quản trị, điều hành, tình hình tài chính của TCTD được cải thiện; Công tác xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đã đạt được một số kết quả ban đầu tích cực, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm; Thanh khoản hệ thống duy trì ổn định; Công tác thanh tra, giám sát được tăng cường, chấn chỉnh, đảm bảo an toàn hệ thống, hỗ trợ tái cơ cấu và xử lý nợ xấu. Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Các kết quả nêu trên đã góp phần tích cực giúp Việt Nam được Hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam vào tháng 5 và tháng 8 lên BB và Ba3.
B. VIỆC THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ
Tại phần A “Các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề” của bảng phân công cơ quan báo cáo, cơ quan thẩm tra kèm theo Kế hoạch 258/KH-UBTVQH14 ngày 23/3/2018 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không có nội dung liên quan đến lĩnh vực ngân hàng.
C. VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ CHẤT VẤN
I. Thông tin chung
Trong nhiệm kỳ, Thống đốc đã tham gia trả lời 43 chất vấn trực tiếp của Đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV; đồng thời đã có văn bản trả lời đầy đủ, kịp thời và đảm bảo chất lượng các nội dung Đại biểu Quốc hội quan tâm chất vấn tại 9 phiếu chất vấn gửi tới Thống đốc.
II. Kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn
1. Điều hành chính sách tiền tệ.
- NHNN đã điều hành linh hoạt, chủ động nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết vốn khả dụng và kiểm soát tiền tệ, giữ ổn định các loại tỷ lệ dự trữ bắt buộc chung đối với các TCTD tạo điều kiện linh hoạt cho điều hành CSTT để góp phần ổn định thị trường, lãi suất, đồng thời chủ động kiểm soát tiền tệ. Điều hành công cụ tái cấp vốn phù hợp với chủ trương của Chính phủ, mục tiêu điều hành của NHNN và nhu cầu vốn của TCTD, trong đó: xem xét tái cấp vốn hỗ trợ khả năng chi trả cho TCTD gặp khó khăn về thanh khoản theo quy định; tiếp tục xử lý đề nghị tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của VAMC nhằm hỗ trợ nguồn vốn hoạt động của TCTD trong quá trình xử lý nợ xấu; tái cấp vốn thực hiện các chương trình theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ và diễn biến lạm phát. Trong hơn 8 tháng đầu năm, mặt bằng lãi suất về cơ bản được tiếp tục duy trì ổn định1 trong điều kiện lãi suất các nước trên thế giới đang tăng lên. Kết quả trên là do NHNN điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT, trong đó tập trung thực hiện điều tiết thanh khoản thị trường liên ngân hàng ổn định, lãi suất liên ngân hàng ở mức hợp lý để hỗ trợ ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện ổn định mặt bằng lãi suất của các TCTD. Đồng thời, trên cơ sở xem xét, phân tích các yếu tố vĩ mô, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất chào mua OMO từ 5%/năm xuống 4,75%/năm để góp phần giảm chi phí vốn cho TCTD; chỉ đạo các TCTD tiếp tục rà soát và cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng vay và đảm bảo an toàn hoạt động.
- Điều hành tỷ giá: Trong những tháng đầu năm, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định. Từ ngày 07/02/2018, NHNN bắt đầu niêm yết tỷ giá mua kỳ hạn 3 tháng, góp phần kiểm soát cung ứng tiền trong khi vẫn mua được ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Từ cuối tháng 6, tỷ giá có diễn biến tăng và thiết lập mặt bằng mới do áp lực từ những biến động bất lợi của kinh tế thế giới. Để ổn định tỷ giá, NHNN đã chủ động, kịp thời điều hành tỷ giá trung tâm linh hoạt; phối hợp đồng bộ với các biện pháp khác như điều tiết thanh khoản, lãi suất tiền VND hợp lý thực hiện các biện pháp thông tin, truyền thông; bán ngoại tệ khi cần thiết để ổn định thị trường. Với các biện pháp điều hành quyết liệt của NHNN và các thông tin thị trường bớt tiêu cực hơn, căng thẳng trên thị trường ngoại tệ đã giảm bớt, thanh khoản thị trường vẫn đảm bảo, các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Tính đến ngày 14/9/2018, NHNN mua ròng được lượng lớn ngoại tệ, bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước (DTNHNN)2.
- Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô: NHNN đã điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo thanh khoản của các TCTD, qua đó, hỗ trợ phát hành trái phiếu Chính phủ với lãi suất hợp lý Thường xuyên trao đổi với Bộ Tài chính các thông tin về diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ, biến động thu - chi của NSNN, biến động số dư tiền gửi Kho bạc và phối hợp chặt chẽ trong việc chuyển số dư tiền gửi của Kho bạc Nhà nước về NHNN để hỗ trợ ổn định thị trường tiền tệ.
Nhờ các giải pháp điều hành chủ động, linh hoạt nêu trên, tính đến ngày 20/9/2018, các chỉ số vĩ mô cơ bản như sau: Tổng phương tiện thanh toán tăng 8,74% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ 2017 tăng 9,59%); huy động vốn tăng 9,15% (cùng kỳ 2017 tăng 10,08%), tín dụng tăng 9,53% (cùng kỳ 2017 tăng 11,02%); lạm phát bình quân 9 tháng đầu năm 2018 tăng 3,57% (cùng kỳ 2017 tăng 3,79%); lạm phát cơ bản 9 tháng đầu năm 2018 tăng 1,41% (cùng kỳ 2017 tăng 1,45%).
2. Chỉ đạo mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn ngân hàng
* Năm 2018, căn cứ vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát, NHNN đã điều hành tín dụng đảm bảo hiệu quả, chất lượng, bằng các giải pháp sau:
- Ngay từ đầu năm, NHNN đã xây dựng và thực hiện các biện pháp kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo chỉ tiêu định hướng cả năm 2018, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến và tình hình thực tế; thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng TCTD trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động và khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh của từng TCTD. Ngày 02/08/2018, NHNN đã ban hành Chỉ thị 04/CT-NHNN về việc tiếp tục triển khai hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng trong những tháng cuối năm 2018, trong đó chỉ đạo các TCTD tập trung kiểm soát chặt chẽ tốc độ và chất lượng tín dụng của toàn hệ thống; Không xem xét, điều chỉnh tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (trừ trường hợp đặc biệt, như một số NHTM tham gia tái cơ cấu trong năm 2018 đối với các TCTD yếu kém); Tiến hành kiểm tra các TCTD có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao vào lĩnh vực bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ,...
- Triển khai các giải pháp hỗ trợ TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên gồm nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao,...;
- Theo dõi sát tình hình cấp tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro để kịp thời triển khai những giải pháp tăng cường kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng; Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ đảm bảo phù hợp với chủ trương của Chính phủ về hạn chế Đô la hóa trong nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường tiền tệ;
- Tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi trong vay vốn tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa như: Chỉ đạo các TCTD đổi mới quy trình, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, xây dựng các chương trình, gói tín dụng với lãi suất hợp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)3; cho phép TCTD được quyết định cho khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn trong nước thực hiện phương án sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đến hết ngày 31/12/2018; chỉ đạo NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố phối hợp các TCTD thực hiện hiệu quả Chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp thông qua các cuộc đối thoại trực tiếp nhằm kịp thời nắm bắt, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý4.
- Chủ động phối hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, tín dụng chính sách theo chủ trương của Chính phủ.
Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp nói trên, nguồn vốn tín dụng đã hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, đến ngày 20/9/2018, tín dụng tăng 9,53% so với cuối năm 20175, cùng với mặt bằng lãi suất được giữ ổn định đã đáp ứng tốt cho nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Tín dụng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ6. Tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ7.
* Đối với một số nhiệm vụ cụ thể:
a) Hoàn thiện chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn, chú trọng cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao:
Ngày 07/9/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị định 55/2015/NĐ-CP nhằm đẩy mạnh đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Một trong các trọng tâm của Nghị định là bổ sung chính sách hướng tới nông nghiệp công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết một số khó khăn trong tiếp cận vốn của các khách hàng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực này, như bổ sung đối tượng vay vốn; giao các Bộ, ngành trình Thủ tướng Chính phủ quy định về tiêu chí xác định dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, làm cơ sở để TCTD thực hiện cho vay; TCTD được nhận tài sản hình thành từ vốn vay của dự án, phương sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp làm tài sản bảo đảm cho khoản vay của khách hàng.
b) Tổ chức tổng kết, đánh giá hiệu quả việc thực hiện Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ và có giải pháp khắc phục kịp thời những bất cập, hạn chế.
- Trong phạm vi nhiệm vụ được giao, NHNN đã tích cực phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cơ quan chủ trì xây dựng Nghị định 67) hoàn thiện nội dung báo cáo phục vụ tổng kết và xây dựng nội dung dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 67. Hội nghị tổng kết đã được tổ chức vào ngày 01/8/2017 dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng;
- Ngày 02/02/2018 , Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP. Để triển khai Nghị định 17, NHNN đã ban hành Thông tư 12/2018/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện.
Đến ngày 31/12/2017, các ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng với ngư dân để cho vay đóng mới, nâng cấp 1.178 tàu (1.032 tàu đóng mới và 146 tàu nâng cấp), chiếm 45,2% tổng số tàu cần đóng mới được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn phân bổ cho các địa phương với số tiền cam kết cho vay đạt trên 11.700 tỷ đồng, đến cuối tháng 8/2018, dư nợ cho vay theo chương trình đạt trên 10.676 tỷ đồng.
- Về cơ bản Nghị định 17 của Chính phủ đã tháo gỡ cơ chế cho vay đóng mới tàu, tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn như: (i) Nợ xấu của chương trình có xu hướng ngày càng gia tăng chiếm gần 12% tổng dư nợ cho vay (1.278 tỷ đồng) do các nguyên nhân: Tàu đóng mới không đảm bảo chất lượng, không khai thác được phải nằm bờ hoặc tàu đã đưa vào khai thác nhưng phải sửa chữa thường xuyên; Chủ tàu vi phạm lãnh hải, bị nước ngoài đánh chìm tàu, không được bảo hiểm bồi thường, mất tài sản bảo đảm gây khó khăn cho NHTM trong xử lý nợ vay; Một số ngư dân chây ỳ trả nợ, thiếu trách nhiệm đối với khoản nợ vay vì cho rằng đây là chính sách hỗ trợ của Nhà nước; (ii) Các ngân hàng gặp khó khăn trong việc quản lý dòng tiền do các chủ tàu giao dịch bằng tiền mặt ngay trên biển, không chuyển doanh thu về ngân hàng; (iii) Ngoài ra, một số khó khăn khác ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai chính sách tín dụng như: chính sách đào tạo, cơ sở hạ tầng nghề cá, cơ sở sửa chữa tàu,... chưa đồng bộ với vận hành tàu công suất lớn.
Trước thực trạng nợ xấu gia tăng, NHNN đã có Tờ trình 80/TTr-NHNN ngày 16/8/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả cho vay đóng mới, nâng cấp tàu và tình trạng nợ xấu có xu hướng gia tăng và đề nghị Thủ tướng Chính phủ có văn bản chỉ đạo UBND 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển, Bộ ngành và các đơn vị liên quan khác phối hợp ngân hàng đẩy mạnh thu hồi nợ và đẩy nhanh thực hiện một số giải pháp hỗ trợ ngư dân, tránh phát sinh nợ xấu. Hiện nay Thủ tướng Chính phủ đang yêu cầu một số địa phương, Bộ Tài chính, Bộ NN&PTNT có ý kiến đối với báo cáo của NHNN.
c) Về việc phát triển và quản lý Nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ
- Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị định 100/2015/NĐ-CP (Nghị định 100), NHNN đã ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn về cho vay, chỉ định 04 NHTM nhà nước tham gia thực hiện chương trình, quyết định về lãi suất cho vay. Bên cạnh đó NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành có liên quan xây dựng, trình Chính phủ về việc cấp nguồn vốn ngân sách thực hiện cho vay nhà ở xã hội, văn bản hướng dẫn về cấp bù chênh lệch lãi suất8.
- Về phía các TCTD: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 22/1/2018 quy định lãi suất đối với các khoản dư nợ cho vay tại TCTD do Nhà nước chỉ định cho khách hàng vay vốn để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở là 5%/năm áp dụng trong năm 2018 và Quyết định 18/2018/QĐ-TTg ngày 2/4/2018 hướng dẫn cấp bù chênh lệch lãi suất cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay là các TCTD được chỉ định chưa được bố trí nguồn ngân sách cấp bù chênh lệch lãi suất để cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100.
- Về phía Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH): Ngày 29/12/2017, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Quyết định số 1972/QĐ-BKHĐT về việc giao chi tiết kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 20189. Theo đó, vốn NSNN cấp cho NHCSXH để cho vay nhà ở xã hội năm 2018 là 500 tỷ đồng (Bộ Tài chính đã cấp 250/500 tỷ đồng). Theo Nghị định 100, NHCSXH có trách nhiệm tự huy động 500 tỷ đồng. Như vậy, nguồn vốn cho vay nhà ở xã hội tại NHCSXH năm 2018 là 1.000 tỷ đồng. NHCSXH cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 370/QĐ-TTg ngày 03/4/2018 về lãi suất cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100 năm 2018 là 4,8%/năm. NHCSXH đã phân bổ chỉ tiêu nguồn vốn cho các địa phương là 1.000 tỷ đồng. NHNN cũng đã chỉ đạo10 NHCSXH khẩn trương thực hiện cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100 và Quyết định 18/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
d) Hỗ trợ người dân bị thiệt hại do cơn bão số 10, 12: NHNN đã có các văn bản chỉ đạo11 các TCTD và NHCSXH chủ động rà soát, tổng hợp thiệt hại của khách hàng đang vay vốn để kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới khôi phục sản xuất và hoàn tất các thủ tục khoanh nợ theo quy định; NHCSXH cân đối nguồn vốn để tập trung ưu tiên cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách tại các địa phương bị thiệt hại. NHNN đã tổ chức nhiều đoàn công tác để nắm bắt tình hình thiệt hại về nợ vay và đôn đốc chỉ đạo các TCTD trên địa bàn tích cực thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân vay vốn bị thiệt hại. Theo thống kê có 29.274 khách hàng bị thiệt hại, tổng dư nợ 2.455 tỷ đồng. Các ngân hàng thương mại và NHCSXH đã kịp thời triển khai các biện pháp hỗ trợ như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ) với số dư lên tới 746,172 tỷ đồng; Cho vay mới phục hồi sản xuất 1.040,88 tỷ đồng; Công tác an sinh xã hội của toàn ngành 16,221 tỷ đồng.
Trên cơ sở đề nghị khoanh nợ theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP cho khách hàng bị thiệt hại do cơn bão số 12 năm 2017 của UBND tỉnh Phú Yên và UBND tỉnh Khánh Hòa12, ngày 19/9/2018 Thống đốc NHNN đã có Quyết định số 1831/QĐ-NHNN thành lập Đoàn công tác liên bộ NHNN-Bộ Tài chính để phúc tra hồ sơ đề nghị khoanh nợ cho khách hàng bị thiệt hại; Đồng thời, NHNN đã có công văn số 5603/NHNN-TD ngày 25/7/2018 yêu cầu Agribank kiểm tra, rà soát hồ sơ đề nghị khoanh nợ. Ngày 19/9/2018, Agribank có Công văn số 9018/NHNo-HSX báo cáo NHNN, Bộ Tài chính đã hoàn thành việc kiểm tra, rà soát hồ sơ theo quy định. Hiện tại, NHNN đang phối hợp với Bộ Tài chính để triển khai thực hiện phúc tra hồ sơ khoanh nợ (dự kiến đầu tháng 10/2018). Sau khi hoàn thành việc phúc tra, NHNN sẽ phối hợp với Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
đ) Triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH:
Tính đến 31/8/2018, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 182.988 tỷ đồng, tăng 11.199 tỷ đồng so với năm 2017 (tăng 6,52%). Dư nợ tập trung ở một số chương trình: cho vay hộ nghèo đạt 38.511 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 21% tổng dư nợ); cho vay hộ cận nghèo đạt 30.103 tỷ đồng (chiếm 16,45% tổng dư nợ); cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 27.034 tỷ đồng (chiếm 14,77% tổng dư nợ); cho vay học sinh, sinh viên đạt 13.196 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 7,21% tổng dư nợ); cho vay hộ gia đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn đạt 20.079 tỷ đồng (chiếm 10,97% tổng dư nợ); cho vay nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn đạt 28.925 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 15,8% tổng dư nợ).
Riêng đối với chương trình cho vay học sinh, sinh viên, hiện nay theo quy định tại Quyết định số 750/QĐ-TTg ngày 01/6/2015, mức lãi suất áp dụng là 6,6%/năm. Tuy nhiên, thời gian cho vay thường là trung hạn (bằng thời gian HSSV còn học tại trường + tối đa 1 năm HSSV được ân hạn + thời gian trả nợ theo quy định); như vậy, so với lãi suất trung hạn các NHTM đang áp dụng (từ 9,1% - 11%/năm) thì lãi suất cho HSSV chỉ bằng 60%. Ngoài ra, còn có những ưu đãi đặc biệt như: Trong thời gian phát tiền vay, khách hàng chưa phải trả nợ gốc và lãi; Trường hợp HSSV đang vay vốn đi nghĩa vụ quân sự trong thời gian đang theo học hoặc sau khi đã tốt nghiệp thì được kéo dài thời gian trả nợ và được miễn lãi tiền vay tương ứng với thời gian phục vụ tại ngũ...
3. Tiếp tục thực hiện các giải pháp quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng phù hợp nhằm chuyển hóa các nguồn vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
a) Các giải pháp quản lý thị trường ngoại tệ:
Thời gian qua, nhờ thực hiện các giải pháp hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế và sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý thị trường, Bộ Công an, chi nhánh NHNN các tỉnh cũng như thay đổi lớn về mức phạt hành chính đối với các vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng mang tính răn đe, tâm lý găm giữ ngoại tệ và vàng giảm, quy mô hoạt động trên thị trường phi chính thức, thị trường ngoại tệ tự do đang ngày càng thu hẹp và bám sát tỷ giá liên ngân hàng, nguồn cung ngoại tệ được cải thiện. Đặc biệt kể từ khi áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm từ 04/01/2016 góp phần nâng cao vị thế của đồng Việt Nam, khuyến khích người dân có ngoại tệ bán cho hệ thống ngân hàng, tạo nguồn cung tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Từ đầu năm 2018 đến 14/9/2018, NHNN đã mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung dự DTNHNN, đưa DTNHNN lên mức khoảng 60 tỷ USD.
Quy mô DTNHNN gia tăng đáng kể đã tạo tiền đề tích cực tăng cường năng lực điều tiết thị trường ngoại hối, ổn định tỷ giá, đảm bảo đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu ngoại hối phục vụ sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế bền vững và nâng cao hệ số tín nhiệm quốc gia trên thị trường quốc tế.
Tương ứng với lượng ngoại tệ mua được cho DTNHNN, NHNN đã cung ứng tiền đồng tương ứng đưa vào lưu thông, bổ sung thanh khoản VND cho toàn hệ thống, thực hiện việc chuyển hóa nguồn lực ngoại tệ thành nguồn vốn cho phát triển kinh tế, đồng thời áp dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác để vẫn đảm bảo được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Như vậy, bằng các giải pháp kiểm soát lạm phát ở mức thấp, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, chống đô la hóa trong nền kinh tế, nguồn ngoại tệ trong tổ chức và dân cư đã được huy động để cho vay nền kinh tế hoặc thông qua việc bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng để có nguồn vốn tiền đồng phục vụ sản xuất kinh doanh.
b) Các giải pháp quản lý thị trường vàng:
Thực hiện chỉ đạo của Quốc hội và Chính phủ, thời gian qua NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ để quản lý thị trường vàng nhằm chuyển hóa nguồn lực vàng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể: (i) Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý thị trường vàng trong nước; (ii) Theo dõi sát diễn biến thị trường vàng trong nước và quốc tế để chủ động, kịp thời có giải pháp điều hành phù hợp; (iii) Tiếp tục tổ chức, sắp xếp lại thị trường vàng miếng; (iv) Phối hợp với các Bộ, ngành chức năng có liên quan để quản lý thị trường vàng theo chủ trương, chỉ đạo của Quốc hội và Chính phủ; (v) Đẩy mạnh công tác truyền thông để tiếp tục tạo được sự đồng thuận của dư luận đối với các chính sách quản lý thị trường vàng của Nhà nước.
Bên cạnh đó, NHNN đang nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý thị trường vàng để phù hợp với bối cảnh quản lý mới. Đồng thời, NHNN tiếp tục hoàn thiện Đề án “Giải pháp hạn chế tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế nhằm chuyển hóa nguồn lực vàng thành tiền phục vụ phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020”. Theo đó, bên cạnh các giải pháp quản lý thị trường vàng, Đề án cũng tập trung vào các giải pháp về kinh tế vĩ mô nhằm ổn định, nâng cao giá trị đồng Việt Nam, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đây là tiền đề để thực hiện mục tiêu hạn chế tình trạng vàng hóa, khuyến khích người nắm giữ vàng tự nguyện bán vàng, qua đó từng bước chuyển hóa nguồn lực vàng thành tiền phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Với những giải pháp đồng bộ, linh hoạt quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP, thị trường vàng tiếp tục diễn biến tương đối ổn định, biến động của giá vàng trong nước không còn tác động bất lợi đến tỷ giá, thị trường ngoại hối và nền kinh tế vĩ mô tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế tiếp tục được hạn chế, nguồn lực vàng bước đầu đã chuyển hóa thành tiền phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
4. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng; triển khai thi hành Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD và triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng
Năm 2017, NHNN đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về xử lý nợ xấu (Nghị quyết 42/2017/QH14) và Luật sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD (Luật số 17/2017/QH14).
Trong đó, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định một số chính sách thí điểm về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đã giúp các TCTD xử lý nợ xấu nhanh hơn, tạo điều kiện phát triển thị trường mua bán nợ, bảo đảm quyền chủ nợ hợp pháp, từ đó giúp hệ thống các TCTD phát huy tốt hơn vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế. Luật sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD (Luật số 17/2017/QH14) sửa đổi, bổ sung 32 Điều; bổ sung mới 28 Điều của Luật Các TCTD 2010 với các nội dung cơ bản tập trung vào: Nâng cao năng lực quản trị, điều hành của TCTD; Minh bạch hóa nguồn vốn góp, xử lý sở hữu chéo; Hạn chế tình trạng cổ đông lớn thao túng, chi phối hoạt động của TCTD; Cắt giảm điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính; Áp dụng can thiệp sớm nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho việc phát hiện, xử lý sớm các TCTD có dấu hiệu yếu kém; Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý TCTD yếu kém, trong đó sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung liên quan đến cơ chế xử lý TCTD được kiểm soát đặc biệt, đồng thời phân định rõ thẩm quyền của cơ quan Nhà nước trong quá trình kiểm soát đặc biệt. Việc tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua 2 văn bản pháp lý quan trọng này giúp tháo gỡ kịp thời các vướng mắc pháp lý để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, xử lý nợ xấu.
Để triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD 2010, Thống đốc NHNN đã ký ban hành 15 Thông tư và tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 01 Quyết định về điều kiện, hồ sơ, trình tự đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn quy định tại Luật các TCTD. Đồng thời, NHNN đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2035. Hiện tại, NHNN đang hoàn thiện dự thảo Quy định thay thế Quy định về xếp hạng các ngân hàng thương mại cổ phần ban hành kèm theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN ngày 12/3/2008.
Bên cạnh đó, NHNN cũng ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động của TCTD; các quy định tạo cơ sở pháp lý để triển khai các chính sách hỗ trợ tín dụng... (phụ lục đính kèm). Nhìn chung, khuôn khổ pháp lý về cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các TCTD đã được hoàn thiện một bước quan trọng, tạo sự đồng bộ, hiệu quả, khả thi, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, đảm bảo ổn định, an toàn, lành mạnh thị trường tài chính tiền tệ.
5. Tái cơ cấu, xử lý nợ xấu và tăng cường thanh tra, giám sát ngân hàng
a) Hoàn thiện và triển khai các đề án, giải pháp để nâng cao năng lực quản trị, điều hành, chú trọng quản trị rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng:
- NHNN đã ban hành Thông tư 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại (NHTM), chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm thay đổi về chất trong công tác quản trị điều hành, quản trị rủi ro và kiểm soát của TCTD; giúp ngăn ngừa, cảnh báo, xử lý kịp thời sai phạm và rủi ro, góp phần giảm thiểu khả năng tổn thất, nguy cơ đổ vỡ của hệ thống ngân hàng...; Thông tư 16/2018/TT-NHNN, Thông tư 19/TT-NHNN ngày 28/12/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Bên cạnh đó, NHNN đang nghiên cứu, xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện chuẩn mực vốn Basel II theo phương pháp nâng cao (FIRB)…Như vậy, cơ chế chính sách thực hiện Basel II sẽ được hoàn thiện, góp phần xây dựng hệ thống pháp lý đồng bộ, thống nhất, tăng cường minh bạch hóa hoạt động ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị điều hành phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động của các TCTD tại Việt Nam; bảo đảm sự an toàn, lành mạnh và phát triển bền vững các TCTD. Ngoài ra, ngày 14/9/2018, NHNN đã có Tờ trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án tăng vốn điều lệ đối với các NHTMNN13. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực tài chính mà còn tăng cường khả năng chống chịu và ứng phó rủi ro của các ngân hàng này.
- Đối với hoạt động của QTDND, NHNN đã ban hành: (i) Thông tư số 05/2018/TT-NHNN ngày 12/3/2018 quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận những thay đổi, danh sách dự kiến bầu, bổ nhiệm nhân sự của TCTD là hợp tác xã. Thông tư này đã quy định chuẩn hóa nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận những thay đổi của TCTD là hợp tác xã hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến bầu, bổ nhiệm nhân sự làm Chủ tịch và thành viên khác của Hội đồng quản trị, Trưởng ban và thành viên khác của Ban kiểm soát, kiểm soát viên chuyên trách, Tổng Giám đốc, Giám đốc của TCTD là hợp tác xã việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên góp vốn của QTDND; (ii) Thông tư 09/2018/TT-NHNN tạo cơ sở pháp lý đối với việc thành lập, chấm dứt hoạt động, giải thể đơn vị mạng lưới của TCTD là hợp tác xã. Trong đó, Thông tư có một số nội dung mới nhằm tăng cường kiểm soát hoạt động và giảm thủ tục hành chính như quy định về: quy chế quản lý mạng lưới; số lượng chi nhánh, phòng giao dịch được thành lập; hạn mức cấp tín dụng của phòng giao dịch của TCTD là hợp tác xã.
Ngoài ra, NHNN đã ban hành Thông tư 23/2018/TT-NHNN ngày 14/9/2018 quy định về tổ chức lại, thu hồi giấy phép và thanh lý tài sản của QTDND. Đối với phương án xử lý QTDND yếu kém, không có khả năng phục hồi, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Chính trị phương án. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, hiện nay, NHNN đang xem xét, xử lý tiếp để hoàn thiện phương án. Sau khi phương án được phê duyệt, NHNN sẽ khẩn trương tổ chức thực hiện nhằm xử lý dứt điểm tình trạng hoạt động kém lành mạnh của hệ thống QTDND, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát.
Trong năm 2018, NHNN đã tổ chức các đoàn công tác do Lãnh đạo NHNN chủ trì, làm việc trực tiếp tại một số địa phương có nhiều QTDND để nắm bắt thêm tình hình hoạt động, các khó khăn, vướng mắc. Trên cơ sở đó, cùng với kết quả và kinh nghiệm xử lý các QTDND yếu kém trong thời gian gần đây, NHNN sẽ bổ sung, hoàn thiện và phê duyệt Đề án Củng cố và phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, trong tháng 8/2018, NHNN đã tổ chức Hội nghị chuyên đề về QTDND. Hiện nay, NHNN đang khẩn trương hoàn thiện để ban hành Chỉ thị của Thống đốc NHNN về chấn chỉnh, tăng cường, phòng, chống, ngăn ngừa vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động trong hệ thống QTDND. Đồng thời, sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc tăng cường giải pháp nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống QTDND.
- Đối với hoạt động tài chính vi mô, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2018/TT-NHNN ngày 23/2/2018 quy định về cấp Giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô và Thông tư số 10/2018/TT-NHNN ngày 09/4/2018 quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận những thay đổi của tổ chức TCVM. Các Thông tư này đóng vai trò quan trọng, từng bước hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động TCVM, góp phần nâng cao năng lực tổ chức, quản trị, điều hành của các tổ chức TCVM theo hướng chuyên nghiệp, khuyến khích và tạo điều kiện cho việc chuyển đổi các chương trình, dự án TCVM ở quy mô lớn thành tổ chức TCVM, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động TCVM.
b) Tiếp tục triển khai hiệu quả việc cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu, đảm bảo an toàn hệ thống:
- Để thực hiện có hiệu quả Đề án“Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” tại Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 (Quyết định 1058), NHNN đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo cơ cấu lại hệ thống các TCTD do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban. NHNN cũng đã thành lập Ban chỉ đạo cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu của NHNN và Tiểu ban chỉ đạo xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng; Ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án; Thực hiện Kế hoạch hành động nêu trên, NHNN đã có văn bản hướng dẫn các TCTD xây dựng phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2017-2020. Đến nay, NHNN đã hoàn thành việc phê duyệt phương án của phần lớn các TCTD.
Đặc biệt, Luật các TCTD sửa đổi được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu, nhất là đối với các TCTD yếu kém. Trên cơ sở đó, việc xử lý các TCTD yếu kém tiếp tục được triển khai hiệu quả trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống, không hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước mà vẫn đảm bảo xử lý căn bản và thực chất nợ xấu. NHNN tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng mua bắt buộc/kiểm soát đặc biệt tập trung xử lý, thu hồi nợ xấu và tài sản bảo đảm; xây dựng lộ trình và phương án chi trả tiền gửi cho khách hàng; cắt giảm chi phí hoạt động; thoái các khoản đầu tư không hiệu quả, không phục vụ trực tiếp hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng… Các ngân hàng này đến nay mặc dù vẫn còn nhiều tồn tại, khó khăn nhưng đã đạt được một số kết quả bước đầu: bộ máy quản trị, kiểm soát, điều hành được thay đổi, kiện toàn và củng cố một bước; thanh khoản được cải thiện, đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát và rủi ro đối với hệ thống ngân hàng; lỗ kinh doanh có xu hướng giảm dần; tập trung phân loại và xử lý thu hồi được một phần nợ xấu. Hiện nay, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ, NHNN đang khẩn trương triển khai, chỉ đạo các đơn vị liên quan để xây dựng phương án cơ cấu lại từng NHTM mua bắt buộc và NHTMCP Đông Á theo quy định.
Bên cạnh việc chủ động nghiên cứu, xây dựng và tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật14 tạo khuôn khổ pháp lý cho việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia tái cơ cấu TCTD yếu kém, NHNN đã luôn tạo điều kiện cho các TCTD sáp nhập, hợp nhất, mua lại thông qua tìm kiếm, giới thiệu đối tác, cung cấp thông tin cho các TCTD có nhu cầu tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật, pháp lý và thủ tục.
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ xử lý nợ xấu, trong đó về phía ngành Ngân hàng, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-NHNN về việc thực hiện Nghị quyết số 42; Thông tư số 09/2017/TT-NHNN ngày 14/8/2017 về mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC; Quyết định số 28/QĐ-NHNN ngày 05/01/2018 phê duyệt Đề án cơ cấu lại và nâng cao năng lực của VAMC giai đoạn 2017 - 2020 và hướng tới 2022. Các TCTD đã thành lập Ban chỉ đạo, các tổ công tác xử lý nợ xấu; Thực hiện rà soát, đánh giá toàn bộ danh mục tín dụng trong toàn hệ thống, đánh giá thực trạng nợ, nợ xấu được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số 42; rà soát TSBĐ và thủ tục pháp lý của các khoản nợ xấu, xây dựng danh mục các TSBĐ đáp ứng đủ các điều kiện thu giữ theo Nghị quyết 42; rà soát, sửa đổi các quy định nội bộ liên quan phục vụ công tác thu giữ tài sản; Chủ động làm việc, phối hợp với VAMC, các đơn vị có liên quan, chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan tố tụng để tranh thủ sự chỉ đạo, hỗ trợ trong quá trình xử lý nợ xấu.
Với các biện pháp chỉ đạo quyết liệt của NHNN và sự nỗ lực, chủ động của các TCTD trong kiềm chế và xử lý nợ xấu, đặc biệt với sự ra đời của Nghị quyết 42, nợ xấu tiếp tục được kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống các TCTD cuối tháng 07/2018 là 2,13% (thấp hơn mức 2,46% năm 2016 và 2,55% năm 2015). Từ năm 201215 đến cuối tháng 07/2018, toàn hệ thống xử lý được 794,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó chủ yếu do TCTD tự xử lý (chiếm 62%) và bán nợ cho các tổ chức, cá nhân (bao gồm cả VAMC) chiếm 38%16.
Bên cạnh kết quả tích cực trong xử lý nợ xấu nói chung, xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 cũng đạt được kết quả bước đầu. Từ 15/8/2017 đến 31/7/2018, tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 của toàn hệ thống TCTD được xử lý đạt 141,3 nghìn tỷ đồng.
Để kịp thời đánh giá các kết quả đạt được, các tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các TCTD và xác định các nhiệm vụ trong tâm thời gian tới, ngày 28/8/2018, NHNN đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn ngành Ngân hàng sơ kết 01 năm triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Quyết định số 1058/QĐ-TTg. Sau Hội nghị, NHNN đã ban hành Chỉ thị 05/CT-NHNN ngày 17/9/2018 về việc tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu và có văn bản gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để tăng cường công tác phối hợp trong triển khai thực hiện Nghị quyết 42.
c) Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát, kiểm tra, kiểm soát nội bộ; Rà soát để xử lý dứt điểm tình trạng sở hữu chéo; Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hệ thống; Quản lý hoạt động cho vay của các công ty tài chính, hoạt động cho vay tiêu dùng:
* Về hoạt động thanh tra, giám sát:
- Trong 9 tháng đầu năm 2018, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, NHNN tiếp tục chủ động tăng cường công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, ngăn chặn, phát hiện và xử lý kiên quyết các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD, thúc đẩy các TCTD triển khai nghiêm túc, có hiệu quả Đề án 1058. Trong 9 tháng đầu năm 2018, NHNN đã thực hiện 884 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với các TCTD (656 cuộc thanh tra và 228 cuộc kiểm tra); ban hành kết luận thanh tra, biên bản kiểm tra đối với 754 cuộc thanh tra, kiểm tra (bao gồm cả các cuộc thanh tra, kiểm tra chưa ban hành kết luận trong kỳ trước chuyển sang). Về cơ bản, khuôn khổ pháp lý cho công tác thanh tra đã được kiện toàn một bước quan trọng17; các cuộc thanh tra được triển khai nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nội dung và kế hoạch thanh tra. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, những hạn chế, tồn tại, sai phạm của các TCTD đã được phát hiện. NHNN đã đưa ra 6.660 kiến nghị, yêu cầu TCTD khắc phục tồn tại, sai phạm; ban hành 102 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với TCTD và doanh nghiệp, cá nhân với tổng số tiền phạt trên 6 tỷ đồng. Ngoài ra, NHNN cũng đã áp dụng một số biện pháp xử lý đối với tổ chức, cá nhân nhằm kiện toàn tổ chức, ổn định bộ máy hoạt động tại một số TCTD (trong đó chủ yếu là tại các Quỹ Tín dụng nhân dân). Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và xử lý sau thanh tra tiếp tục được quan tâm thực hiện chặt chẽ, sát sao nhằm bảo đảm TCTD thực hiện nghiêm túc các kiến nghị, kết luận về thanh tra, kiểm tra.
- Công tác giám sát ngân hàng cũng tiếp tục được đổi mới và tăng cường trên cơ sở hoàn thiện, triển khai các công cụ, phương pháp giám sát mới gắn liền với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển cơ sở dữ liệu và hệ thống tiêu chí giám sát và từng bước chuyển dần từ giám sát tuân thủ sang kết hợp giữa giám sát tuân thủ và giám sát trên cơ sở rủi ro. Phạm vi giám sát được mở rộng, bao gồm cả các công ty con, chi nhánh của TCTD ở nước ngoài, sở hữu vốn, đầu tư tài chính của TCTD. Nội dung giám sát không chỉ dừng ở việc giám sát việc tuân thủ pháp luật, chấp hành các tỷ lệ, giới hạn an toàn hoạt động mà còn chú trọng đánh giá, cảnh báo rủi ro trong hoạt động của TCTD. Đặc biệt, NHNN đã ứng dụng, phát triển và từng bước triển khai các công cụ giám sát giúp phát hiện, cảnh báo sớm rủi ro và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
NHNN đã ban hành Thông tư số 08/2017/TT-NHNN ngày 01/8/2017 quy định về về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng và Sổ tay Giám sát ngân hàng hướng dẫn một số nội dung quy định tại Thông tư 08; Thông tư số 04/2018/TT-NHNN ngày 12/03/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08, trong đó bổ sung quy định về áp dụng can thiệp sớm đối với đối tượng giám sát ngân hàng. Các văn bản này đã góp phần chuẩn hóa và thống nhất nội dung, trình tự, thủ tục giám sát TCTD trong toàn hệ thống Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng.
Với việc đổi mới và tăng cường công tác giám sát, nhiều sai phạm và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD được phát hiện. Trong 9 tháng đầu năm 2018 có 23 văn bản cảnh báo, khuyến nghị gửi các TCTD18 về các vi phạm phổ biến như cấp tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích/lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro; huy động vốn và gửi tiền; quản trị điều hành, kiểm tra, kiểm soát nội bộ; vi phạm quy định về tỷ lệ, giới hạn an toàn; vi phạm quy định về hạch toán kế toán, quản lý tài chính; hoạt động ngoại hối và kinh doanh vàng; vốn điều lệ, cổ đông, cổ phần, cổ phiếu; an toàn kho quỹ và vi phạm trong hoạt động thanh toán và công nghệ tin học;...
- Để tăng cường phòng, chống, ngăn ngừa, hạn chế các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN đã ban hành Chỉ thị 07/CT-NHNN ngày 11/10/2017; Ban hành Kế hoạch hành động của Ngành thực hiện Nghị quyết số 88/NQ-CP của Chính phủ triển khai thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW của Trung ương về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”. Tổ chức Hội nghị tăng cường công tác đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động ngân hàng để quán triệt đến tất cả các đơn vị trong toàn Ngành, đảm bảo thực hiện nghiêm túc, chấp hành đầy đủ các quy định về an ninh, an toàn, phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động ngân hàng. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ để kịp thời phát hiện, xử lý các bất cập, hành vi vi phạm quy định pháp luật; Rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định, quy trình nội bộ, đảm bảo minh bạch, chặt chẽ, không tạo sơ hở để lợi dụng, sai phạm.
* Về xử lý tình trạng sở hữu chéo: Nhằm tiếp tục hạn chế, khắc phục tình trạng vi phạm sở hữu cổ phần, sở hữu chéo, NHNN thời gian qua đã và đang thực hiện và đề xuất một số giải pháp xử lý bao gồm các giải pháp chính sách và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý thanh tra, giám sát và tái cơ cấu các TCTD; đồng thời phối hợp với các cơ quan liên quan (Ủy ban chứng khoán Nhà nước), Bộ, ngành và UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các DNNN để đẩy nhanh tiến độ thoái vốn góp, vốn cổ phần tại các TCTD theo chỉ đạo của Chính phủ và các giải pháp, lộ trình đã đề ra. Kết quả đến 30/6/2018, các TCTD đã cơ bản xử lý khắc phục được những vi phạm sở hữu cổ phần, sở hữu chéo, cụ thể: Số cặp TCTD sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau đã giảm từ 7 cặp trong năm 2012 xuống còn 1 cặp; Sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp giảm, đến tháng 6/2018 còn tại 2 NHTMCP với 2 cặp sở hữu cổ phần lẫn nhau (tại thời điểm tháng 6/2012 có 56 cặp).
* Về quản lý hoạt động cho vay của các công ty tài chính, hoạt động cho vay tiêu dùng:
- Đối với hoạt động của các công ty tài chính: NHNN đã thực hiện cấp phép chặt chẽ; hiện có 16 công ty tài chính đang hoạt động, trong đó có 11 công ty tài chính tín dụng tiêu dùng. NHNN thực hiện giám sát thường xuyên và có báo cáo định kỳ (hàng quý) về tình hình tài chính và những vấn đề cần lưu ý đối với các công ty tài chính theo 2 nhóm (công ty tài chính hoạt động bình thường và công ty tài chính hoạt động yếu kém) đối với các nội dung: huy động vốn, cho vay, chất lượng tài sản, kết quả kinh doanh, tình hình thanh khoản, việc thực hiện các tỷ lệ an toàn trong hoạt động...
Trong năm 2017 và 9 tháng đầu năm 2018, NHNN đã tiến hành 05 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với công ty tài chính. Qua đó, NHNN đã chỉ ra một số tồn tại, hạn chế về hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng tiêu dùng nói riêng, đưa ra các kiến nghị, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật19. Kịp thời có các văn bản chỉ đạo, cảnh báo các công ty tài chính có tồn tại, rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động nhằm kịp thời xử lý các tồn tại, sai phạm tại từng đơn vị, tiếp tục chỉ đạo các công ty tài chính tuân thủ nghiêm túc các quy định pháp luật hiện hành.
- Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng: NHNN đã hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng, trong đó có tín dụng tiêu dùng, như: Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng; Thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016về hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính. Các quy định hiện hành về hoạt động cho vay tiêu dùng của cả NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty tài chính đã phù hợp với quy định của pháp luật liên quan, điều kiện thực tế và đặc thù hoạt động cho vay tiêu dùng, qua đó tạo điều kiện cho người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và đảm bảo hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển bền vững.
Nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, giám sát hoạt động của công ty tài chính và hoạt động cho vay tiêu dùng, ngăn ngừa hành vi gian lận, vi phạm các quy định của pháp luật, trong 9 tháng đầu năm 2018, NHNN đã có công văn chỉ đạo TCTD, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố chấn chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng, phục vụ nhu cầu đời sống đối với các công ty tài chính tiêu dùng, chi nhánh và văn phòng đại diện của công ty tài chính tiêu dùng20. Yêu cầu các TCTD, công ty tài chính tiêu dùng rà soát các quy định nội bộ, đảm bảo ban hành đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt các quy định nội bộ về cho vay phục vụ đời sống, cho vay tiêu dùng, quản lý tiền vay, quy trình thu hồi nợ. Thực hiện nghiêm và công khai, minh bạch các quy định về lãi suất, phí, nguyên tắc, phương pháp tính lãi và phí, các biện pháp thu hồi nợ đúng quy định.
6. Triển khai tích cực đề án thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM); đẩy mạnh ứng dụng và bảo đảm an ninh, an toàn công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng
a) Triển khai tích cực Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt:
Thời gian qua, hoạt động thanh toán đặc biệt là TTKDTM đã có nhiều chuyển biến tích cực, đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thanh toán của nền kinh tế. Hành lang pháp lý ngày càng được hoàn thiện21 tạo khuôn khổ pháp lý thúc đẩy TTKDTM, tạo sự đồng bộ và điều kiện thuận lợi hơn, khuyến khích phát triển TTKDTM, tăng cường quản lý thanh toán bằng tiền mặt và bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán;
Cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ TTKDTM được các NHTM chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Trong 8 tháng đầu năm 2018, tổng số lượng giao dịch qua Hệ thống TTĐTLNH 87.315 nghìn giao dịch với giá trị 48.148 nghìn tỷ đồng. Tính đến hết tháng 6/2018, toàn quốc có 18.287 ATM và 289.075 POS đang hoạt động, số lượng giao dịch qua POS đạt khoảng 95,18 triệu giao dịch với giá trị giao dịch đạt khoảng 202,16 nghìn tỷ đồng (tương ứng tăng 42,53% và 21,48% so với cùng kỳ của năm 2017);
Các mô hình tổ chức, các phương tiện và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại phát triển với nhiều dịch vụ ngân hàng đa dạng, phong phú và ngày càng dễ dàng và thuận tiện, thân thiện đã góp phần làm thay đổi tích cực trong nhận thức và thói quen của xã hội về TTKDTM trong nền kinh tế. Có trên 76 TCCUDVTT triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và trên 41 TCCUDVTT cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động22;
Tỷ lệ thanh toán tiền mặt trong nền kinh tế trên tổng phương tiện thanh toán tiếp tục có xu hướng giảm dần nhờ sự phát triển mạnh mẽ các sản phẩm, dịch vụ TTKDTM ngày càng phát triển23.
Hoạt động TTKDTM phục vụ cho việc thu, chi NSNN được chú trọng triển khai, có chuyển biến tích cực, nhất là việc triển khai công tác hiện đại hóa quy trình thu, nộp thuế qua các NHTM, góp phần tăng tỷ lệ TTKDTM trong khu vực công24, giảm tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt qua KBNN. Tích cực phối hợp với ngành Tài chính triển khai thanh toán điện tử trong thu nộp NSNN25.
b) Đẩy mạnh ứng dụng và bảo đảm an ninh, an toàn công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động ngân hàng:
NHNN đã ban hành các kế hoạch về ứng dụng CNTT trong hoạt động ngân hàng26, đưa ra các mục tiêu, lộ trình và giải pháp cụ thể nhằm định hướng trong việc đầu tư và hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ ứng dụng công nghệ tiên tiến từ cách mạng công nghiệp 4.0 như: Triển khai các dịch vụ ngân hàng số, cung cấp dịch vụ trên không gian mạng để mở rộng phạm vi, thời gian, đối tượng tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng; Hệ thống Kho dữ liệu và công cụ phân tích thông minh giúp tự động hóa bán hàng dịch vụ, cung cấp thông tin tiên tiến về khách hàng; Trang bị và quản lý tài nguyên CNTT dựa trên nền tảng ảo hóa; Các hệ thống an ninh hiện đại bảo đảm an toàn cho hệ thống thông tin; Sử dụng dịch vụ điện toán đám mây…
Trước tình hình tấn công mạng trên thế giới và trong nước gia tăng, NHNN đã tổ chức Hội nghị triển khai một số nội dung về công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng trong tình hình hiện nay. NHNN cũng ban hành nhiều văn bản pháp lý, chỉ đạo về công tác an ninh CNTT, an toàn trong lĩnh vực thanh toán dựa trên các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, đảm bảo hệ thống thông tin của ngành Ngân hàng đủ sức ứng phó với các rủi ro, thách thức về an ninh thông tin trên không gian mạng. NHNN đã ban hành Thông tư 20/2018/TT-NHNN ngày 30/8/2018 quy định về giám sát các hệ thống thanh toán; nghiên cứu, xây dựng trình cấp có thẩm quyền về khuôn pháp thử nghiệm có kiểm soát đối với hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng; Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 10/CT-TTg ngày 11/4/2018 về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác; Ban hành Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 13/4/2018 về các biện pháp tăng cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên quan tiền ảo...
Chủ động, thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động thanh toán để chỉ đạo xử lý kịp thời các vụ việc mất an ninh, an toàn; Có văn bản cảnh báo, chỉ đạo, chấn chỉnh các đơn vị trong toàn ngành nghiêm túc chấp hành các quy định về đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán, triển khai áp dụng các giải pháp tăng cường an ninh, an toàn đối với hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho thanh toán27.
Hàng năm tổ chức các đoàn kiểm tra tuân thủ về CNTT tại các TCTD, phát hiện và đề nghị các TCTD thực hiện khắc phục các rủi ro về an toàn thông tin, tổ chức diễn tập cho các TCTD là thành viên mạng lưới ứng cứu sự cố an ninh CNTT trong ngành Ngân hàng.
7. Khó khăn, vướng mắc
- Đối với điều hành CSTT: Điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới tiếp tục đối mặt với các khó khăn thách thức như: giá các hàng hóa quan trọng, thiết yếu trên thị trường thế giới (đặc biệt là giá nhiên liệu, lương thực thực phẩm ...) biến động, có thể làm tăng áp lực lạm phát trong nước; kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong nước có thể chịu áp lực từ những diễn biến khó lường từ thị trường thế giới (xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ của các nước, tăng trưởng kinh tế thế giới được dự đoán bắt đầu xu hướng giảm tốc, dòng vốn tiếp tục dịch chuyển khỏi các thị trường mới nổi, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang…).
- Đối với điều hành tín dụng:
+ Việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản (BĐS) luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ngân hàng do các quy định pháp luật hiện hành đối với lĩnh vực BĐS còn nhiều bất cập, đặc biệt là các quy định điều chỉnh đối với một số loại hình BĐS mới28; việc định giá tài sản đảm bảo là BĐS gặp khó khăn do đây là tài sản đặc biệt, có lợi nhuận kỳ vọng cao, có nhiều hoạt động đầu cơ, thao túng giá thị trường nên dẫn đến giá cả BĐS không phản ánh đúng giá trị tài sản; sự chênh lệch về kỳ hạn và lãi suất giữa nguồn vốn huy động và cho vay; hệ thống thông tin chính thức về thị trường BĐS còn hạn chế dẫn đến các TCTD gặp khó khăn trong dự báo nguồn cung, trong đánh giá sự phù hợp về giá, phân khúc khách hàng,...
+ Đối với các dự án BOT, BT giao thông, các TCTD có thể gặp rủi ro trong dài hạn do việc thu hồi vốn vay đối với các dự án giao thông gặp khó khăn, đặc biệt là các rủi ro xuất phát từ chính sách29, từ chính dự án30 và khách hàng vay vốn31.
+ Tín dụng phục vụ đời sống tăng là tín hiệu tích cực để thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, tuy nhiên nếu không được kiểm soát theo đúng mục đích và đối tượng vay vốn sẽ tiềm ẩn rủi ro trong thời gian tới.
- Đối với công tác tái cơ cấu, xử lý nợ xấu:
+ Việc thực hiện cơ cấu lại đối với các NHTM có vốn Nhà nước gặp khó khăn về vốn trong khi đó nguồn lực Nhà nước có thể được sử dụng để tăng vốn cho các NHTM có vốn Nhà nước cũng hết sức hạn chế.
+ Việc thoái vốn đầu tư tại doanh nghiệp khác của các ngân hàng mua lại bắt buộc chưa thực hiện được, do phát sinh vướng mắc liên quan đến quy định tại Nghị định 32/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018, theo đó việc chuyển nhượng vốn của ngân hàng thương mại mua bắt buộc phải gắn với phương án cơ cấu lại doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt và quy định về yêu cầu kết quả định giá doanh nghiệp.
+ Tiến độ xử lý cơ cấu lại đối với một số TCTD phi ngân hàng có chủ sở hữu/cổ đông lớn là các Tập đoàn/Tổng Công ty nhà nước còn chậm, phụ thuộc vào nội dung phương án cơ cấu lại tổng thể của Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước.
+ Việc triển khai Nghị quyết 42 trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là liên quan đến công tác thu giữ TSBĐ, hoạt động thi hành án dân sự, giải quyết tranh chấp tại tòa án liên quan đến xử lý nợ xấu; các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Toà án còn rất hạn chế. Cơ quan thuế các cấp chưa hiểu đúng tinh thần của Nghị quyết số 42 quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ thuế khi xử lý tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu của TCTD; do đó, các TCTD, VAMC khi thu được số tiền từ việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm, chưa được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế...
+ Thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu còn hạn chế do chưa có thị trường mua bán nợ thật sự chuyên nghiệp dẫn đến việc mua bán nợ xấu chưa thật sự sôi động, các thương vụ lớn chưa phát sinh nhiều. Bên cạnh đó, việc xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu còn nhiều bất cập nên dự phòng rủi ro vẫn là nguồn chủ yếu để xử lý nợ xấu.
+ Việc phối hợp triển khai các giải pháp về xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản chưa được thực hiện quyết liệt, đầy đủ.
8. Kiến nghị, đề xuất
- Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
+ Hiện nay, những biến phức tạp của nền kinh tế thế giới có thể gây tác động khó lường đến tình hình tài chính – tiền tệ trong nước. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành theo dõi sát sao diễn biến; phối hợp chặt chẽ với NHNN chủ động chuẩn bị các phương án để kịp thời ứng phó, nhằm đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
+ Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và thông báo công khai, sớm đưa hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường BĐS đi vào hoạt động để giảm thiểu hiện tượng đầu cơ BĐS; Có giải pháp để tăng nguồn cung nhà ở xã hội, nhà ở thương mại có diện tích trung bình, giá bán vừa phải để điều chỉnh sự mất cân đối về cung cầu nhà ở; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực kinh doanh BĐS, đặc biệt tại các đô thị lớn, thành phố du lịch nhằm đảm bảo thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, ổn định;...
+ Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan thực hiện công khai, minh bạch việc lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu, các thông tin về dự án BOT, BT giao thông để thuận tiện cho người dân giám sát và TCTD trong thẩm định cho vay...; thực hiện các giải pháp huy động, đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn để đầu tư các dự án giao thông; đẩy nhanh lộ trình triển khai áp dụng các trạm thu phí không dừng trên tất cả các dự án BOT đã và đang đầu tư nhằm kiểm soát hiệu quả nguồn thu của các dự án, đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng.
+ Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và các đơn vị, tổ chức có liên quan cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa quá trình phân loại, sắp xếp các doanh nghiệp, trọng tâm là các DNNN, thực hiện tái cơ cấu, nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo điều kiện để hệ thống các TCTD xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính.
+ Để thực hiện việc tăng vốn cho các NHTMNN, đề nghị Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp nghiên cứu tháo gỡ các vướng mắc về pháp lý, tham mưu Thủ tướng Chính phủ báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, sửa đổi các Nghị quyết của Quốc hội hoặc bổ sung vào Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN (ngoại trừ các NHTM mua bắt buộc) và đưa nhu cầu bổ sung vốn cho các NHTMNN vào danh mục đầu tư công trung hạn; trình Chính phủ sửa đổi phạm vi đầu tư bổ sung vốn nhà nước quy định tại Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 32/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ.
- Đối với Quốc hội:
+ Đề nghị Quốc hội xem xét tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý đối với lĩnh vực BĐS (sửa đổi Luật kinh doanh BĐS, Luật nhà ở...); nghiên cứu đề xuất sửa đổi các sắc thuế liên quan đến BĐS để góp phần hạn chế đầu cơ BĐS;...
+ Để đảm bảo Nghị quyết số 42 được triển khai có hiệu quả, đề nghị Quốc hội chỉ đạo: (i) Tòa án nhân dân tối cao khẩn trương có văn bản gửi cơ quan Toà án địa phương yêu cầu các đơn vị này ưu tiên áp dụng các thủ tục rút gọn được quy định tại Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP khi giải quyết các vụ án liên quan đến xử lý nợ xấu. Có thể tiến hành xét xử điểm 1 vụ án theo thủ tục rút gọn, trên cơ sở đó, rút kinh nghiệm để triển khai nhân rộng trong toàn hệ thống ngành Tòa án và bổ sung xây dựng cơ chế chính sách được hoàn chỉnh hơn; (ii) Tòa án nhân dân tối cao xem xét, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) sớm có văn bản chỉ đạo về việc hoàn trả các TSBĐ là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết 42.
+ Trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, đề nghị Quốc hội xem xét, sửa đổi các Nghị quyết của Quốc hội hoặc bổ sung vào Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN (ngoại trừ các NHTM mua bắt buộc).
Trên đây là báo cáo việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV đối với lĩnh vực ngân hàng, Chính phủ xin báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội./.
Nơi nhận: - Chủ tịch Quốc hội; - TTgCP, các PTTgCP; - Tổng Thư ký Quốc hội; - VPQH: HC (5b); PVHĐGS; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ; - VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý, Thư ký của TTg và các PTTg, các Vụ: KTTH, Cổng TTĐTCP; - Lưu: VT, QHĐP(2b). NQ |
TM.CHÍNH PHỦ TUQ.THỦ TƯỚNG THỐNG ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Lê Minh Hưng |