NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 224 /BC-NHNN Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2019
BÁO CÁO
Về việc thực hiện Nghị quyết số 113/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII và các Nghị quyết của Quốc hội về hoạt động chất vấn
tại Kỳ họp thứ 2, 3, 4, 5, 7, Quốc hội khóa XIV
Kính gửi: |
- Quốc hội; - Các vị Đại biểu Quốc hội. |
I. THÔNG TIN CHUNG
Thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 113/2015/QH13 và các Nghị quyết của Quốc hội về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 2, 3, 4, 5, 7, Quốc hội khóa XIV, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động nghiên cứu, rà soát, phân công các đơn vị chức năng triển khai quyết liệt, có hiệu quả những nội dung có liên quan đến lĩnh vực Ngân hàng. Trong đó, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) chủ động, linh hoạt, thận trọng; phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục thực hiện các giải pháp quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng phù hợp nhằm chuyển hóa các nguồn vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
2. Điều hành các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với sức hấp thụ của nền kinh tế; chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
3. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD); Nâng cao năng lực và bộ máy quản trị của các TCTD; Triển khai hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, trong đó tập trung xử lý nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường; Củng cố, chấn chỉnh hoạt động hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND); Quản lý hoạt động cho vay của các công ty tài chính, hoạt động cho vay tiêu dùng.
4. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng; triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
5. Triển khai tích cực Đề án thanh toán không dùng tiền mặt; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng.
Đến nay, về cơ bản NHNN đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao và đạt được mục tiêu Quốc hội, Chính phủ đề ra. Chủ động, linh hoạt trong điều hành CSTT phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, góp phần quan trọng vào việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Giữ ổn định mặt bằng lãi suất trong nước đặc biệt là lãi suất cho vay lĩnh vực ưu tiên tiếp tục giảm; thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao, niềm tin vào VND được củng cố; tăng trưởng tín dụng gắn với chất lượng và hiệu quả, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực là động lực cho tăng trưởng. Công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, đạt được kết quả quan trọng, giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống, quy mô và kết quả hoạt động tiếp tục được nâng cao; năng lực quản trị điều hành từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế; tính minh bạch và chất lượng dịch vụ ngân hàng từng bước được cải thiện. Hoạt động thanh toán tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ với nhiều sản phẩm, tiện ích ngân hàng mới, hiện đại được áp dụng; số lượng và giá trị thanh toán tăng trưởng mạnh; các rủi ro, nguy cơ mất an toàn cơ bản được lường đón, kiểm soát và xử lý kịp thời. Các giải pháp đồng bộ nêu trên đã góp phần tích cực giúp nền kinh tế đạt được nhiều kết quả khả quan, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp hơn mục tiêu do Quốc hội đề ra. Qua đó, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đã đánh giá rất tích cực: Fitch nâng triển vọng của Việt Nam từ mức Ổn định sang Tích cực và tiếp tục duy trì mức xếp hạng BB (tháng 5/2019); S&P lần đầu tiên sau 9 năm đã điều chỉnh nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam từ BB- lên BB (tháng 4/2019).
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO TẠI CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI
1. Điều hành chính sách tiền tệ, ngoại hối (Nghị quyết số 113/2015/QH13, Nghị quyết số 55/2017/QH14)
1.1. Điều hành đồng bộ và linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại tệ và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu: NHNN đã điều hành nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc chào mua, chào bán tín phiếu để điều tiết lượng tiền trong nền kinh tế, duy trì sự ổn định trên thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó, NHNN cũng điều hành đồng bộ các công cụ CSTT khác như giữ ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc chung đối với các TCTD1; thực hiện tái cấp vốn đối với các TCTD để cho vay theo các chương trình đã được Chính phủ phê duyệt;... góp phần kiểm soát tiền tệ, không tạo ra áp lực gia tăng lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và mặt bằng lãi suất thị trường.
Đồng thời, CSTT được phối hợp chặt chẽ với CSTK trong việc điều hòa vốn khả dụng của các TCTD; thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành về điều hành CSTT, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát, làm cơ sở để tính toán liều lượng, mức độ điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý phù hợp mục tiêu kiểm soát lạm phát chung, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại tệ, giảm chi phí huy động vốn cho NSNN với kỳ hạn được kéo dài.
Kết quả là lạm phát bình quân và lạm phát cơ bản được duy trì tương đối ổn định ở mức thấp, tạo dư địa để Chính phủ điều chỉnh giá các mặt hàng và dịch vụ Nhà nước quản lý (9 tháng đầu năm 2019, lạm phát bình quân là 2,5%; lạm phát cơ bản bình quân là 1,91%). Tính đến ngày 30/9/2019, tổng phương tiện thanh toán tăng 8,86% so với cuối năm 2018 (cùng kỳ tăng 8,81%).
1.2. Duy trì ổn định mặt bằng lãi suất thị trường: Trong 9 tháng đầu năm, NHNN đã chỉ đạo các TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý trên cơ sở lãi suất huy động và mức độ rủi ro của khoản vay, đảm bảo an toàn tài chính; điều tiết vốn khả dụng của các TCTD chủ yếu qua thực hiện chào mua giấy tờ có giá và chào bán tín phiếu NHNN qua nghiệp vụ thị trường mở, góp phần giữ ổn định thị trường tiền tệ. Về lãi suất điều hành, trong bối cảnh lãi suất quốc tế gia tăng, NHNN đã điều hành đồng bộ các giải pháp CSTT nhằm ổn định mặt bằng lãi suất, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, NHTW các nước trên thế giới gia tăng nới lỏng CSTT, trong nước kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát phù hợp với mục tiêu, thị trường tiền tệ, ngoại hối diễn biến ổn định; từ ngày 16/9/2019, NHNN điều chỉnh giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành để tiếp tục tạo điều kiện hỗ trợ nền kinh tế và thanh khoản của hệ thống TCTD2.
Về cơ bản, mặt bằng lãi suất tiếp tục duy trì ổn định3. Một số TCTD bao gồm các NHTM Nhà nước và một số NHTMCP lớn đã tiếp tục giảm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên vào đầu năm và tháng 8/20194. Hiện, mặt bằng lãi suất lãi suất huy động phổ biến ở mức 0,5-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,5%-5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng; 5,5-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng; 6,6-7,3% đối với kỳ hạn trên 12 tháng. Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 6-9%/năm đối với ngắn hạn; 9-11% đối với trung và dài hạn.
1.3. Điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến trên thị trường trong nước và quốc tế, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ; kết hợp điều tiết thanh khoản, lãi suất VND hợp lý và chủ động truyền thông để ổn định thị trường, mua ngoại tệ bổ sung Dự trữ ngoại hối Nhà nước (DTNHNN) khi có điều kiện thuận lợi.
Trong 9 tháng đầu năm 2019, mặc dù có nhiều áp lực từ những diễn biến trên thị trường quốc tế (diễn biến đồng CNY giảm giá mạnh, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, dự kiến về lộ trình chính sách của Fed,…), thị trường ngoại tệ vẫn duy trì hoạt động ổn định; tỷ giá trong nước tương đối ổn định, diễn biến linh hoạt phù hợp với sự thay đổi của điều kiện thị trường trong nước, quốc tế và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ; thanh khoản thị trường vẫn đảm bảo, các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời; NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ, bổ sung DTNHNN.
Ngày 30/09/2019, tỷ giá trung tâm ở mức 23.159 VND/USD, tăng 1,46% so với cuối năm 2018; tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng (23.202 VND/USD) và tỷ giá niêm yết mua-bán của Vietcombank (23.145-23.265 VND/USD) xấp xỉ mức cuối năm 2018.
1.4. Tiếp tục thực hiện các giải pháp quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng phù hợp nhằm chuyển hóa các nguồn vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh: Thời gian qua, nhờ thực hiện các giải pháp hạn chế tình trạng đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế và sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý thị trường, Bộ Công an, tâm lý găm giữ ngoại tệ và vàng giảm, quy mô hoạt động trên thị trường phi chính thức, thị trường ngoại tệ tự do đang ngày càng thu hẹp và bám sát tỷ giá liên ngân hàng.
Việc áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm đã góp phần làm tăng tính linh hoạt và nâng cao vị thế của đồng Việt Nam, đồng thời làm giảm tâm lý găm giữ ngoại tệ trong nền kinh tế, góp phần làm tăng nguồn cung ngoại tệ trên thị trường. Tương ứng với lượng ngoại tệ mua được cho DTNHNN, NHNN đã cung ứng tiền đồng đưa vào lưu thông, bổ sung thanh khoản VND cho toàn hệ thống, thực hiện việc chuyển hóa nguồn lực ngoại tệ thành nguồn vốn cho phát triển kinh tế, đồng thời áp dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác để vẫn đảm bảo được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thị trường vàng tiếp tục diễn biến ổn định và tự điều tiết tốt. Trong thời gian gần đây, do giá vàng thế giới tăng nên giá vàng trong nước cũng tăng theo, nhưng thị trường vàng trong nước không có biến động lớn, bất thường, nhu cầu về vàng thấp. Từ năm 2014 đến nay, nền kinh tế không phải sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu vàng can thiệp thị trường.
2. Điều hành tín dụng tăng trưởng phù hợp với cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro được kiểm soát chặt chẽ (Nghị quyết số 55/2017/QH14)
Trên cơ sở mức tăng trưởng 13,89% của tín dụng cuối năm 2018, mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát năm 2019, NHNN định hướng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng là 14%, có điều chỉnh linh hoạt phù hợp diễn biến, tình hình thực tế nhằm kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Đến ngày 30/9/2019, tín dụng tăng 9,4% so với cuối năm 2018. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực, trong đó tín dụng tập trung vào lĩnh vực SXKD5, lĩnh vực ưu tiên6; tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ7. Tín dụng ngoại tệ được kiểm soát phù hợp với lộ trình hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế. Các giải pháp điều hành tín dụng mà NHNN đã triển khai:
- Thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đến từng TCTD trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tín dụng lành mạnh; trong đó, ưu tiên chỉ tiêu cao hơn đối với TCTD thực hiện trước thời hạn các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016, các TCTD hỗ trợ QTDND yếu kém… Trong quá trình điều hành, NHNN xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của một số TCTD nhằm đảm bảo hỗ trợ TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả cho doanh nghiệp và người dân.
- Chỉ đạo TCTD nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung phân bổ tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán… Tăng cường quản lý rủi ro đối với các dự án BOT, BT giao thông; Kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ và đưa ra lộ trình phù hợp giảm dần cho vay bằng ngoại tệ.
- Tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng ngân hàng, tăng cường triển khai chương trình kết nối doanh nghiệp - ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi trong vay vốn tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp8. Trong những tháng đầu năm 2019, NHNN đã tổ chức Hội nghị về công tác tín dụng đối với các đối tượng ưu tiên, đối tượng chính sách tại khu vực miền núi phía Bắc; các Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tại 03 thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh) và khu vực Tây Nam Bộ, đồng thời chỉ đạo các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố triển khai các Hội nghị tương tự tại các địa phương trên toàn quốc. Dự kiến trong tháng 10/2019, NHNN tiếp tục triển khai Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc.
- Quyết liệt triển khai nhiều giải pháp căn cơ, cụ thể nhằm mở rộng tín dụng, tăng khả năng tiếp cận vốn, góp phần đẩy lùi tín dụng đen như: (i) Khảo sát tại một số địa phương để nắm bắt nhu cầu vốn tiêu dùng chính đáng của người dân, trên cơ sở đó, tổ chức các Hội nghị triển khai các giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ sản xuất và tiêu dùng nhằm hạn chế tín dụng đen; (ii) Ban hành kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai Chỉ thị 12/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm hạn chế tín dụng đen9; (iii) Rà soát sửa đổi các quy định về cho vay tiêu dùng, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống để tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng các sản phẩm, kênh cho vay phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của người dân; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với các tổ chức TCVM và hệ thống QTDND, phát huy vai trò quan trọng trong việc gia tăng mức độ tiếp cận dịch vụ tài chính10; (iv) Chỉ đạo các TCTD phát triển các sản phẩm cho vay tiêu dùng11; đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết cho vay; tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tiếp tay cho các đối tượng xã hội đen cho vay nặng lãi; (v) Phối hợp với các bộ, ngành liên quan, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị-xã hội, các cơ quan thông tấn báo chí đẩy mạnh công tác truyền thông về các chủ trương, chính sách, các chương trình tín dụng, sản phẩm dịch vụ tài chính - ngân hàng và cách thức tiếp cận vốn vay; nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân, doanh nghiệp trong quản lý tài chính, chi tiêu; cảnh báo các thủ đoạn của các đối tượng, tổ chức cho vay nặng lãi.
- Chỉ đạo các TCTD đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn, thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo12, ngành chăn nuôi lợn13. Chủ động làm việc với UBND tỉnh Gia Lai để bàn và đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện các giải pháp cụ thể tháo gỡ khó khăn cho người dân trồng tiêu14.
- Một số chương trình tín dụng đặc thù:
a) Hoàn thiện chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn, chú trọng cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 7/3/2017, NHNN đã ban hành Quyết định 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 chỉ đạo các Ngân hàng thương mại triển khai chương trình cho vay khuyến khích nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch với lãi suất cho vay thấp hơn từ 0.5%-1.5% so với lãi suất cho vay thông thường của ngân hàng. Đến nay, doanh số cho vay lũy kế theo chương trình đạt hơn 52.000 tỷ đồng, dư nợ đạt khoảng 38.000 tỷ đồng với hơn 17.000 khách hàng còn dư nợ.
Ngoài ra, để đẩy mạnh cho vay lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/18 trong đó bổ sung thêm đối tượng được vay vốn, cho phép mở rộng cho vay không có TSBĐ tối đa lên đến 70% giá trị dự án, phương án sản xuất NNCNC đối với các doanh nghiệp có dự án sản xuất nông nghiệp CNC nhưng không thuộc khu, vùng nông nghiệp công nghệ cao, chưa được cấp GCN doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao,....
b) Tình hình cho vay hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ
Đến hết ngày 31/12/2017 (thời điểm dừng kí kết mới hợp đồng cho vay đóng mới, nâng cấp tàu), các ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng đối với ngư dân để cho vay đóng mới, nâng cấp 1.177 tàu (1.031 tàu đóng mới và 146 tàu nâng cấp), chiếm 45,2% tổng số tàu cần đóng mới Bộ NN&PTNT phân bổ cho các địa phương giai đoạn 2014 – 2020 với tổng số tiền cam kết cho vay đạt trên 11.700 tỷ đồng. Đến cuối tháng 9/2019, dư nợ cho vay theo chương trình đạt 10.270 tỷ đồng.
Hiện nay, nợ xấu cho vay theo Nghị định 67 có xu hướng tăng nhanh tại hầu hết các tỉnh, thành phố ven biển15. Ngoài một số nguyên nhân khách quan, bất khả kháng dẫn đến việc ngư dân không trả được nợ vay thì còn do nhiều ngư dân có thái độ chây ì, thiếu trách nhiệm trả nợ ngân hàng, coi đây là nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước. Trước thực trạng này, NHNN đã kịp thời rà soát, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đề xuất đẩy nhanh việc thực hiện một số giải pháp đồng bộ từ các Bộ, ngành trung ương đến chính quyền địa phương các cấp, các hiệp hội nhằm hỗ trợ ngư dân, hỗ trợ ngân hàng thương mại thu hồi nợ vay, hạn chế nợ xấu gia tăng16. Bên cạnh đó, NHNN đã chủ động triển khai các giải pháp:
- Đối với các ngư dân không trả được nợ ngân hàng do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng: (i) NHNN đã phối hợp với Bộ Tài chính quy định bổ sung một số nguyên nhân khách quan, bất khả kháng17 ngư dân được các NHTM cơ cấu lại thời hạn trả nợ cũng được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 67 trong thời gian cơ cấu18; (ii) Chỉ đạo các NHTM tạo điều kiện hỗ trợ ngư dân có nhu cầu chuyển đổi chủ tàu do không đủ năng lực tiếp tục đánh bắt19; (iii) Kịp thời nắm bắt các khó khăn, kiến nghị của ngư dân để phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý.
- Đối với trường hợp ngư dân cố tình chây ì, không trả nợ: NHNN tiếp tục chỉ đạo NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố tham mưu cho Ban chỉ đạo 67 của tỉnh định kỳ tổ chức họp với các ngư dân để đôn đốc nhắc nhở, vận động ngư dân thực hiện đúng trách nhiệm và nghĩa vụ trong quan hệ tín dụng; trường hợp cần thiết có biện pháp xử lý phù hợp (như khởi kiện theo quy định)20.
- Đối với trường hợp ngư dân muốn chuyển đổi nghề khai thác do nghề khai thác hiện tại không hiệu quả: NHNN đã có Công văn số 4933/NHNN-TD ngày 02/7/2018 đề nghị Bộ NN&PTNT làm việc và thống nhất với Bộ Tài chính và các đơn vị liên quan hoặc báo cáo để xin ý kiến chỉ đạo của Chính phủ để thông báo cho người dân được biết.
Trong thời gian tới, để chính sách tín dụng đạt hiệu quả, NHNN tiếp tục thực hiện một số giải pháp đã triển khai như: (i) Chỉ đạo các NHTM chủ động phối hợp khách hàng thu nợ, kịp thời nắm bắt và đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho ngư dân; phối hợp với NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố ven biển tham mưu cho Ban chỉ đạo 67 của tỉnh có biện pháp xử lý dứt điểm đối với ngư dân cố tình chây ì không trả nợ vay; (ii) Đề nghị UBND các tỉnh, thành phố ven biển hỗ trợ ngành Ngân hàng thu hồi nợ vay theo văn bản số 10048/VPCP-KTTH ngày 16/10/2018; (iii) Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành (Tài chính, NN&PTNT,…) sớm xử lý khó khăn cho người dân liên quan đến chính sách bảo hiểm, bồi thường thiệt hại khi rủi ro xảy ra, hỗ trợ duy tu, bảo dưỡng tàu,...; (iv) Đầy mạnh công tác truyền thông để người dân hiểu rõ, hiểu đúng về chính sách của Nhà nước, nâng cao trách nhiệm trả nợ ngân hàng theo đúng cam kết tại hợp đồng tín dụng.
c) Về việc phát triển và quản lý Nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị định 100/2015/NĐ-CP (Nghị định 100), NHNN đã ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn về cho vay, chỉ định 04 NHTM Nhà nước tham gia thực hiện chương trình, quyết định về lãi suất cho vay. Bên cạnh đó NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành có liên quan xây dựng, trình Chính phủ về việc cấp nguồn vốn ngân sách thực hiện cho vay nhà ở xã hội, văn bản hướng dẫn về cấp bù chênh lệch lãi suất21.
- Về phía các TCTD: tự huy động vốn, được ngân sách nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất. Tuy nhiên, các TCTD được chỉ định chưa được bố trí nguồn ngân sách cấp bù chênh lệch lãi suất giai đoạn 2016-2020.
- Về phía Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH): Ngân sách nhà nước cấp 50%, tự huy động 50%. Đến nay, ngân sách đã cấp đủ 1.163 tỷ cho NHCSXH22 (giai đoạn 2016-2020). Đến thời điểm 31/8/2019, dư nợ cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100 tại NHCSXH đạt 1.774 tỷ đồng với 5.452 khách hàng còn dư nợ trên 61 tỉnh, thành phố.
d) Các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH
Đến 31/8/2019, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 199.823 tỷ đồng, tăng 6,4% so với cuối năm 2018, với gần 6,6 triệu khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ tập trung ở một số chương trình: cho vay hộ nghèo đạt 35.888 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 17,96% tổng dư nợ); cho vay hộ cận nghèo đạt 31.572 tỷ đồng (chiếm 15,8% tổng dư nợ); cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 33.159 tỷ đồng (chiếm 16,59% tổng dư nợ); cho vay học sinh, sinh viên đạt 11.037 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 5,52% tổng dư nợ); cho vay hộ gia đình sản xuất kinh doanh và thương nhân vùng khó khăn đạt 23.627 tỷ đồng (chiếm 11,82% tổng dư nợ); cho vay giải quyết việc làm đạt 17.285 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 8,65% tổng dư nợ); cho vay nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn đạt 34.035 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 17% tổng dư nợ).
Từ ngày 01/3/2019, mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo nâng từ 50 triệu đồng/hộ lên 100 triệu đồng/hộ và nâng thời hạn cho vay tối đa từ 60 tháng lên 120 tháng. Riêng đối với chương trình cho vay học sinh, sinh viên, trên cơ sở kiến nghị của cử tri, vừa qua NHNN đã tích cực phối hợp với Bộ Tài chính (đơn vị chủ trì) báo cáo đề xuất Thủ tướng Chính phủ chấp thuận điều chỉnh nâng mức cho vay đối với học sinh, sinh viên từ 1,5 triệu đồng/tháng/HSSV dự kiến lên 2,5 triệu đồng/tháng/HSSV để đáp ứng kịp thời vốn cho học sinh, sinh viên.
e) Các giải pháp triển khai hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)
Nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động trợ giúp phát triển DNNVV, trong đó có chính sách hỗ trợ tiếp cận vốn tín dụng, thời gian qua, NHNN đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành trong việc xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật hỗ trợ DNNVV23. Về phía ngành Ngân hàng, thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Luật Hỗ trợ DNNVV và các Nghị định hướng dẫn Luật, Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 15/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Luật Hỗ trợ DNNVV, NHNN đã xây dựng và triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm hỗ trợ DNNVV trong tiếp cận vốn như: (i) Ban hành Thông tư số 45/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 hướng dẫn các TCTD trong cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP; (ii) Chỉ đạo các TCTD triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DNNVV trong việc tiếp cận vốn như: đổi mới quy trình, đơn giản hóa thủ tục vay vốn; xây dựng các chương trình, gói tín dụng với lãi suất hợp lý cho DNNVV; nghiên cứu phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp với quy mô và hoạt động của DNNVV24; (iii) Đăng tải thông tin về cơ chế, chính sách tín dụng, các chương trình, gói tín dụng hỗ trợ DNNVV của ngành Ngân hàng trên cổng thông tin điện tử của NHNN và gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đăng tải lên cổng thông tin hỗ trợ DNNVV25.
3. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng; triển khai thi hành Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD và triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 113/2015/QH13, Nghị quyết số 55/2017/QH14)
NHNN tiếp tục tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Trong năm 2018 và những tháng đầu năm 2019 (tính đến ngày 30/8/2019), NHNN đã trình Chính phủ/Thủ tướng Chính phủ ban hành: 5 Nghị định, 2 Quyết định (riêng năm 2018 ban hành 3 Nghị định và 1 Quyết định); chủ trì ban hành 65 Thông tư (riêng năm 2018 ban hành 51 Thông tư), trong đó, 16 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật số 17/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD 2010, (gồm 1 Quyết định và 15 Thông tư); đồng thời hoàn thiện các quy định liên quan đến: bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng26; hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài27; nội dung, trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng28; kiểm soát đặc biệt đối với các TCTD29; hoạt động của QTDND30; hoạt động thanh toán31; quản lý ngoại hối; đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh32. Bên cạnh đó, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN đã hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Cơ quan TTGSNH theo hướng tinh gọn, hiệu quả33.
Đồng thời, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN đã hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt.
NHNN cũng đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan có liên quan rà soát để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập, xung đột pháp lý giữa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngành Ngân hàng với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật khác.
4. Tái cơ cấu, xử lý nợ xấu và tăng cường thanh tra, giám sát ngân hàng (Nghị quyết số 113/2015/QH13, Nghị quyết số 55/2017/QH14)
4.1. Tiếp tục triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD
Trên cơ sở các giải pháp quy định tại Đề án 1058 và thực trạng hoạt động của hệ thống các TCTD, NHNN chỉ đạo quyết liệt các TCTD hoàn thiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu. Đến nay, NHNN đã cơ bản hoàn thành việc phê duyệt Phương án hoặc có văn bản giao HĐQT/HĐTV rà soát, hoàn thiện, chịu trách nhiệm phê duyệt phương án cơ cấu lại của hầu hết các TCTD. Một số TCTD chưa được phê duyệt phương án chủ yếu là các TCTD đang rà soát, bổ sung, hoàn thiện Phương án cơ cấu lại trên cơ sở kết luận thanh tra hoặc các TCTD yếu kém đang xử lý theo phương án đặc thù.
Công tác cơ cấu lại các TCTD đã đạt được những kết quả quan trọng theo đúng mục tiêu, lộ trình đề ra tại Đề án, tạo sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD, thể hiện ở những mặt sau:
- Năng lực tài chính của các TCTD tiếp tục được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm34: Đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của toàn hệ thống đạt 591,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,57% so với cuối năm 2018 và tăng 15,5% so với cuối năm 201735; vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống đạt 856,1 nghìn tỷ đồng, tăng 12,3% so với cuối năm 2018 và 29,7% so với cuối năm 2017. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) ở mức 11,9%.
Việc triển khai Basel II được tập trung thực hiện để đáp ứng các thông lệ quốc tế về an toàn vốn. Về mục tiêu có ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II (phương pháp tiêu chuẩn trở lên), đến nay 17 NHTM (15 NHTM trong nước, 02 ngân hàng 100% vốn nước ngoài) đã có văn bản đăng ký áp dụng Thông tư số 41/2016/TT-NHNN trước thời hạn hiệu lực, trong đó 11 NHTM đã có Quyết định chấp thuận của Thống đốc NHNN gồm: Vietcombank, VIB, OCB, MB, VPBank, TPBank, ACB, Techcombank, MSB, HDBank, ShinhanBank.
- Quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng: Đến cuối tháng 8/2019, tổng tài sản của hệ thống các TCTD đạt 11,81 triệu tỷ đồng tăng 6,7% so với năm 2018 và tăng 18,8% so với cuối năm 2017.
- Các NHTM do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ (NHTMNN) tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các TCTD. NHNN giám sát chặt chẽ việc triển khai giải pháp cơ cấu lại của các NHTMNN, kịp thời yêu cầu rà soát, điều chỉnh phương án phù hợp với thực tiễn hoạt động để khắc phục các tồn tại, yếu kém. Đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của 04 NHTMNN (Agribank, Vietcombank, Vietinbank, BIDV) đạt 139 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với cuối năm 2018; tổng tài sản đạt 5.081 nghìn tỷ đồng, tăng 5,29% so với cuối năm 2018, chiếm 43,01% toàn hệ thống; cho vay thị trường 1 đạt 3.652 nghìn tỷ đồng, chiếm 47,9% toàn hệ thống. Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng của các NHTMNN bị hạn chế do phải đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn trong điều kiện vốn điều lệ của các ngân hàng này chậm tăng trưởng36, đặc biệt là đối với Agribank và Vietinbank.
Để tăng cường năng lực tài chính cho các NHTMNN, bảo đảm thực hiện đúng các quy định về tỷ lệ an toàn, đáp ứng mức đủ vốn theo chuẩn mực vốn Basel II (phương pháp tiêu chuẩn), NHNN đang tích cực phối hợp với Bộ Tài chính xử lý vấn đề tăng vốn cho các NHTMNN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tập trung chỉ đạo Agribank và các đơn vị liên quan nghiên cứu, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là về các quy định pháp lý để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa Agribank và đã có Tờ trình Thủ tướng Chính phủ báo cáo, đề xuất việc xử lý tài chính đặc thù liên quan đến cổ phần hóa Agribank.
- Các NHTM cổ phần (NHTMCP) tích cực thực hiện Phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt trong đó tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện các mặt tài chính, quản trị, xử lý nợ xấu, tăng cường các biện pháp kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh ; tích cực phát triển các dịch vụ thanh toán, dịch vụ phi tín dụng khác và mở rộng dịch vụ bán lẻ, tín dụng tiêu dùng; đẩy mạnh phát triển và đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng.
Đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của các NHTMCP đạt 270 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% so với cuối năm 2018; tổng tài sản có đạt 4.918 nghìn tỷ đồng, tăng 8,0% so với cuối năm 2018; cho vay thị trường 1 đạt 3.033 nghìn tỷ đồng, tăng 11,3% so với cuối năm 2018.
- Đối với các ngân hàng mua bắt buộc và ngân hàng Đông Á (DAB): Trong thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo quyết liệt các ngân hàng này xây dựng, hoàn thiện phương án cơ cấu lại/phương án phục hồi. Các ngân hàng đã chủ động, tích cực tìm kiếm đối tác, đàm phán với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài có nguyện vọng tham gia phương án cơ cấu lại. Đến nay, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án cơ cấu lại NH Đại Dương. Đối với NH Xây dựng, NHNN đang lấy ý kiến các Bộ, ngành liên quan đối với dự thảo phương án cơ cấu lại theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
4.2 Xử lý nợ xấu và nâng cao hiệu quả hoạt động của VAMC
- Về xử lý nợ xấu nội bảng (theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN): NHNN đã chỉ đạo các TCTD tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới; tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc khách hàng trả nợ; bán, phát mãi tài sản bảo đảm (TSBĐ) của khoản nợ; bán nợ theo cơ chế thị trường; sử dụng dự phòng rủi ro; tích cực áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42. Đồng thời, các TCTD tích cực thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro và chất lượng công tác thẩm định tín dụng; triển khai các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát nợ xấu và xử lý nợ xấu. Nhờ đó, nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD tiếp tục được xử lý, kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%. Tính từ năm 2012 đến cuối tháng 8/2019, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 968,89 nghìn tỷ đồng nợ xấu37, trong đó nợ xấu do các TCTD tự xử lý là 629,2 nghìn tỷ đồng (chiếm 64,94% tổng nợ xấu xử lý), còn lại là bán nợ (bao gồm bán nợ cho VAMC và tổ chức, cá nhân khác) chiếm 35,06%. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 8/2019 là 1,98%.
Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống TCTD tính đến tháng 8/2019 ở mức 4,84%, giảm mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016, mức 7,36% cuối năm 2017 và mức 5,85% cuối năm 2018.
- Về kết quả xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42: Lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 8/2019, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 236,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 (không bao gồm sử dụng dự phòng rủi ro và khoản nợ bán cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt), trong đó: (i) xử lý nợ xấu nội bảng đạt 137,7 nghìn tỷ đồng; (ii) xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 là 47,97 nghìn tỷ đồng; (iii) xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 51,12 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, đến thời điểm cuối tháng 08/2019, các TCTD đã sử dụng 123,89 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng38.
- Kết quả mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC:
+ Đối với việc mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt, lũy kế từ 2013 đến 31/8/2019, VAMC mua nợ xấu đạt 348.500 tỷ đồng dư nợ gốc nội bảng tương ứng với giá mua nợ là 316.935 tỷ đồng.
+ Mua nợ theo giá trị thị trường, lũy kế đến 31/8/2019, VAMC đã mua được 55 khoản nợ với dư nợ gốc đạt 6.724 tỷ đồng và giá mua nợ đạt 6.821 tỷ đồng.
+ Lũy kế từ 2013 đến 31/8/2019, VAMC đã phối hợp với các TCTD thu hồi nợ ước đạt 138.347 tỷ đồng. Đặc biệt từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, kết quả thu hồi nợ của VAMC từ 15/8/2017 đến 31/8/2019 đạt 77.043 tỷ đồng, bằng 56% tổng giá trị thu hồi nợ lũy kế từ năm 2013 đến 30/6/2019.
- Về nâng cao hiệu quả hoạt động của VAMC: Hoạt động mua nợ của VAMC góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ các TCTD xử lý nợ xấu, góp phần duy trì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống TCTD ở mức dưới 3% trong suốt giai đoạn từ 2015 đến nay39. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VAMC, NHNN đã ban hành Quyết định số 28/QĐ-NHNH ngày 05/01/2018 về triển khai Đề án Cơ cấu lại và nâng cao năng lực của VAMC giai đoạn 2017-2020 để phát huy vai trò của VAMC là công cụ đặc biệt của Nhà nước trong xử lý nợ xấu và là trung tâm thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ. NHNN thường xuyên đánh giá tác động và ban hành các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của VAMC phù hợp với thực tiễn; theo đó, hệ thống các văn bản hỗ trợ hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC đã từng bước được cải thiện40.
4.3. Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát, kiểm tra, kiểm soát nội bộ; sử dụng hiệu quả thông tin đánh giá tín nhiệm các TCTD; Rà soát để xử lý dứt điểm tình trạng sở hữu chéo; Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hệ thống; Quản lý hoạt động cho vay của các công ty tài chính, hoạt động cho vay tiêu dùng
* Về công tác thanh tra: Trong 9 tháng đầu năm 2019, NHNN đã thực hiện 1.009 cuộc thanh tra, kiểm tra và ban hành kết luận thanh tra, biên bản kiểm tra đối với 920 cuộc thanh tra, kiểm tra41; đưa ra 6.603 kiến nghị, yêu cầu các TCTD khắc phục tồn tại, sai phạm; ban hành 150 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với TCTD và doanh nghiệp, cá nhân với tổng số tiền phạt 12,45 tỷ đồng. Ngoài ra, NHNN cũng đã áp dụng một số biện pháp xử lý đối với tổ chức, cá nhân nhằm kiện toàn tổ chức, ổn định bộ máy hoạt động tại một số TCTD (trong đó chủ yếu là tại các QTDND).
* Về công tác giám sát: Công tác giám sát thường xuyên được đổi mới, tăng cường nhằm kịp thời phát hiện và cảnh báo các sai phạm, rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD. Trên cơ sở những sai phạm, rủi ro phát hiện qua công tác giám sát, trong 9 tháng đầu năm NHNN đã ban hành khoảng 200 văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh, cảnh báo rủi ro, yêu cầu TCTD chấp hành nghiêm túc các quy định pháp luật, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động, bảo đảm hoạt động an toàn, lành mạnh.
* Về sử dụng thông tin xếp hạng các TCTD: Để phục vụ công tác quản lý nhà nước, đảm bảo an toàn, an ninh tiền tệ trong hoạt động ngân hàng, định kỳ hàng năm, NHNN tiến hành đánh giá, xếp hạng các TCTD42; trên cơ sở đó, có các biện pháp quản lý phù hợp với tình hình hoạt động và sự lành mạnh của từng TCTD, như: (i) Xem xét, đánh giá về mức độ an toàn, lành mạnh của các TCTD; (ii) Kịp thời xác định các TCTD tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, qua đó có các biện pháp ngăn chặn như: cảnh báo sớm tới các TCTD; yêu cầu TCTD xây dựng và thực hiện các phương án khắc phục; đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt…
* Về xử lý tình trạng sở hữu chéo: Kết quả cụ thể là: (i) Số cặp TCTD sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau về cơ bản đến thời điểm 30/6/2019 đã khắc phục hết (năm 2012:7 cặp); (ii) Sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp giảm, đến tháng 6/2019 còn lại 01 NHTMCP với 01 cặp sở hữu cổ phần lẫn nhau43 (tại thời điểm tháng 6/2012 có 56 cặp).
* Về quản lý hoạt động cho vay của các công ty tài chính, hoạt động cho vay tiêu dùng:
- Đối với hoạt động của các công ty tài chính: Trên toàn hệ thống hiện có 16 công ty tài chính đang hoạt động, trong đó có 12 công ty tài chính tín dụng tiêu dùng. NHNN thực hiện giám sát thường xuyên về tình hình tài chính và những vấn đề cần lưu ý đối với các công ty tài chính theo 2 nhóm (công ty tài chính hoạt động bình thường và công ty tài chính hoạt động yếu kém) đối với các nội dung: huy động vốn, cho vay, chất lượng tài sản, kết quả kinh doanh, tình hình thanh khoản, việc thực hiện các tỷ lệ an toàn trong hoạt động...
Trên cơ sở thanh tra, kiểm tra đối với công ty tài chính, NHNN đã kịp thời có các văn bản chỉ đạo, cảnh báo các công ty tài chính có tồn tại rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động nhằm kịp thời xử lý các tồn tại, sai phạm tại từng đơn vị, tiếp tục chỉ đạo các công ty tài chính tuân thủ nghiêm túc các quy định pháp luật hiện hành; đưa ra các kiến nghị, yêu cầu chỉnh sửa, khắc phục; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật44.
- Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng: NHNN thường xuyên có công văn chỉ đạo TCTD, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố chấn chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng, phục vụ nhu cầu đời sống đối với các công ty tài chính tiêu dùng, chi nhánh và văn phòng đại diện của công ty tài chính tiêu dùng45. Yêu cầu các TCTD, công ty tài chính tiêu dùng chấn chỉnh lại hoạt động cho vay, thu nợ đảm bảo minh bạch, có chính sách lãi suất phù hợp, phương thức thu nợ đúng quy định pháp luật. NHNN đang hoàn thiện dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 về hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính theo các định hướng, mục tiêu quản lý nhà nước nêu trên nhằm bảo đảm hoạt động cho vay tiêu dùng an toàn, lành mạnh, tăng cường khả năng tiếp cận vốn đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn cho mục đích tiêu dùng thực sự, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.
* Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phòng, chống rửa tiền:
- Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục được thực hiện đúng quy định pháp luật . Một số vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp liên quan đến tranh chấp dân sự đã được NHNN phối hợp với cơ quan chức năng xử lý theo đúng quy định của pháp luật, kịp thời bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người dân. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được triển khai nghiêm túc trong toàn ngành Ngân hàng thông qua các hoạt động phổ biến, quán triệt các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường công tác thanh tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác tự kiểm tra của các TCTD.
- Công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố: NHNN đã và đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để chuẩn bị cho đợt đánh giá đa phương của Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về cơ chế phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố của Việt Nam như: Tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2019-2020 và Kế hoạch tổng thể cho đánh giá đa phương của Việt Nam về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố; Phối hợp với các đơn vị liên quan, hoàn thành Báo cáo tuân thủ kỹ thuật (Báo cáo TC); Báo cáo tính hiệu quả đối với 11 Mục tiêu trực tiếp (Báo cáo IO); tổ chức làm việc giữa Đoàn đánh giá tiền trạm của APG với các Bộ, ngành liên quan về nội dung báo cáo TC. Hiện NHNN đang khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để chuẩn bị cho đánh giá đa phương của APG tại Việt Nam vào tháng 11/2019... Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền.
- Trong 9 tháng đầu năm, NHNN đã tiếp nhận khoảng 1.300 báo cáo giao dịch đáng ngờ. Chuyển giao thông tin liên quan đến 100 vụ việc cho các cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định pháp luật. Ngoài ra, NHNN đã nhận được khoảng 200 văn bản đề nghị cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng, trong đó đã xử lý hầu hết các văn bản này. Các thông tin do NHNN chuyển giao, cung cấp qua công tác phòng, chống rửa tiền đã hỗ trợ hiệu quả cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc điều tra, xét xử kịp thời nhiều vụ án lớn trong thời gian qua.
5. Triển khai tích cực Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; đẩy mạnh ứng dụng và bảo đảm an ninh, an toàn công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng; triển khai thí điểm các mô hình thanh toán mới, áp dụng công nghệ mới trong hoạt động thanh toán (Nghị quyết số 55/2017/QH14)
Hoạt động thanh toán tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ với nhiều sản phẩm, tiện ích ngân hàng mới, hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin; các chỉ số thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tăng trưởng ấn tượng; các rủi ro, nguy cơ mất an toàn cơ bản được nhìn nhận, kiểm soát và xử lý kịp thời. Trong 7 tháng đầu năm 2019, số lượng giao dịch thanh toán nội địa qua thẻ ngân hàng đạt hơn 158,5 triệu giao dịch với tổng giá trị giao dịch đạt hơn 410,9 nghìn tỷ đồng (tăng tương ứng 15,8% và 15,6% so với cùng kỳ năm 2018); số lượng giao dịch tài chính qua kênh Internet đạt hơn 226 triệu giao dịch với giá trị khoảng 10.951 nghìn tỷ đồng (tăng tương ứng 51,8% và 18,3% so với cùng kỳ năm 2018); số lượng giao dịch tài chính qua kênh điện thoại di động đạt hơn 202 triệu giao dịch với giá trị giao dịch đạt hơn 2.093 nghìn tỷ đồng (tăng tương ứng 104,9% và 155,3% so với cùng kỳ năm 2018).
Để đạt được những kết quả như trên, NHNN đã chủ động triển khai các giải pháp đồng bộ, hiệu quả nhằm đẩy mạnh TTKDTM và nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho người dân theo chủ trương của Chính phủ như: (i) Triển khai hiệu quả Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (Quyết định 2545/QĐ-TTg ngày 31/12/2016) và Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công như thu thuế, điện, nước sinh hoạt, học phí, viện phí, chi trả các chương trình an sinh xã hội (Quyết định 241/QĐ-TTg ngày 23/2/2018)46; (ii) Ban hành Bộ Tiêu chuẩn cơ sở (TCCS) thẻ chip nội địa, Bộ đặc tả kỹ thuật QR-code nhằm đảm bảo an toàn, tiện ích với chi phí hợp lý (iii) Chỉ đạo các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán (TGTT) nghiên cứu, ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ mới, hiện đại vào các sản phẩm, dịch vụ thanh toán; (iv) Nâng cấp hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, phát triển mạng lưới POS dùng chung; chỉ đạo xây dựng hệ thống thanh toán phục vụ các giao dịch bán lẻ (ACH) nhằm đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng trong nền kinh tế số; (v) Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền về TTKDTM, giáo dục tài chính, có các biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ người tiêu dùng.
Cùng với công tác chỉ đạo phát triển TTKDTM, NHNN cũng đặc biệt chú trọng chỉ đạo, điều hành công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung thông qua nhiều biện pháp như: (i) Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tăng cường công tác an ninh công nghệ thông tin, an toàn trong lĩnh vực thanh toán dựa trên các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, đảm bảo hệ thống thông tin của ngành Ngân hàng đủ sức ứng phó với các rủi ro, thách thức về an ninh thông tin trên không gian mạng; (ii) Ban hành các văn bản chỉ đạo, cảnh báo, chấn chỉnh các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật và thực hiện các biện pháp tăng cường an ninh, bảo mật trong hoạt động thanh toán và trung gian thanh toán; (iii) Triển khai áp dụng các giải pháp tăng cường an ninh, an toàn đối với hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho thanh toán; (iv) Triển khai các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn, xử lý triệt để các hành vi lợi dụng hình thức thanh toán qua ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán để thực hiện hoạt động bất hợp pháp như: thanh toán xuyên biên giới trái phép, tiền ảo, tài sản ảo, giả mạo thẻ, bảo mật thông tin người sử dụng,...; (v) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đảm bảo các hệ thống thanh toán hoạt động an toàn, hiệu quả đối với hoạt động nghiệp vụ và hệ thống công nghệ của các tổ chức cung cứng dịch vụ thanh toán; (vi) Đẩy mạnh truyền thông, cảnh báo kịp thời phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ thanh toán, phù hợp với thực tiễn trên nền ứng dụng khoa học công nghệ, NHNN đã nghiên cứu, triển khai thí điểm các mô hình, dịch vụ mới, như: (i) Phối hợp với Bộ, ngành liên quan nghiên cứu và đã có Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép thí điểm các tổ chức TGTT và ngân hàng Việt Nam hợp tác thanh toán với tổ chức TGTT, ngân hàng nước ngoài; hay mô hình dịch vụ tương tự mô hình NHTM giao đại lý cung ứng các dịch vụ thanh toán; (ii) Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông nghiên cứu, có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các dịch vụ khác có giá trị nhỏ (dịch vụ Mobile-Money)47; (iii) Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về Đề án cơ chế quản lý thử nghiệm (Regulatory Sandbox) cho hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng48; (iv) Xây dựng Đề án cơ chế thí điểm quản lý hoạt động cho vay ngang hàng (P2P Lending) tại Việt Nam.
III- ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Hiện nay, có nhiều dự án BOT, BT giao thông đã hoàn thành, đi vào khai thác có doanh thu không đạt như phương án tài chính ban đầu, với dư nợ khoảng 53.000 tỷ đồng có nguy cơ phải cơ cấu nợ, phát sinh nợ xấu cho các NHTM.
Nhằm tạo điều kiện triển khai có hiệu quả hoạt động cho vay đối với các dự án giao thông theo hình thức BOT, phục vụ phát triển kinh tế, NHNN đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ ngành liên quan phối hợp chặt chẽ và tham gia hỗ trợ tích cực với ngành Ngân hàng: (i) Hoàn thiện cơ chế, chính sách để huy động nguồn lực phát triển hạ tầng giao thông; (ii) Tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm huy động các nguồn vốn có tính chất dài hạn phù hợp với nhu cầu vốn dài hạn của các dự án; (iii) Tập trung xử lý các vướng mắc liên quan đến thu phí và triển khai thu phí tự động không dừng.
2. Các TCTD được chỉ định chưa được bố trí nguồn ngân sách giai đoạn 2016 - 2020 để thực hiện chính sách cho vay nhà ở xã hội. Ngân sách nhà nước mới bố trí nguồn vốn cho vay đối với NHCSXH đến hết năm 2019, sau giai đoạn này chưa được bố trí nguồn vốn để tiếp tục cho vay.
Để đảm bảo hoạt động cho vay nhà ở xã hội được triển khai có hiệu quả, đề nghị Quốc hội chấp thuận bố trí nguồn vốn cấp bù chênh lệch lãi suất cho các TCTD và bổ sung nguồn vốn cho NHCSXH để thực hiện cho vay theo Nghị định 100.
3. Để tháo gỡ khó khăn trong triển khai chương trình cho vay theo Nghị định 67, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố tiếp tục phối hợp hỗ trợ ngân hàng thu hồi nợ vay. Bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền người dân hiểu chính sách của Nhà nước và trách nhiệm trả nợ ngân hàng, UBND các tỉnh, thành phố cần có biện pháp xử lý dứt điểm đối với ngư dân cố tình chây ỳ không chịu trả nợ để chính sách của Nhà nước có hiệu quả.
4. Về công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các TCTD:
- Việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ của NHTMNN nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của các ngân hàng này trên thị trường tài chính tiền tệ thời gian qua gặp nhiều khó khăn. Tổng số vốn cần đầu tư, bổ sung cho các NHTMNN là khá lớn để đảm bảo đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II trong khi nguồn lực Nhà nước có thể được sử dụng để tăng vốn cho các ngân hàng này cũng hết sức hạn chế.
- Việc triển khai cơ cấu lại 03 ngân hàng mua bắt buộc là một quá trình khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ, phải phối hợp chặt chẽ và lấy ý kiến của nhiều Bộ, ngành và các cơ quan liên quan và phụ thuộc vào kết quả đàm phán với các nhà đầu tư.
- Nợ xấu đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các TCTD. Nợ xấu hiện đang tập trung chủ yếu ở các TCTD yếu kém, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn do để xử lý dứt điểm nợ xấu, thu hồi tài sản không sinh lời của các TCTD này đòi hỏi phải có cơ chế phân bổ tổn thất, giảm nhẹ gánh nặng tài chính bằng chính sách tài chính phù hợp để TCTD hấp thụ dần tổn thất, vượt qua được khó khăn tài chính. Bên cạnh đó, việc xử lý, thu hồi nợ và TSBĐ của các ngân hàng mua bắt buộc khó khăn do phần lớn TSBĐ cho các khoản nợ đều đang bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh.
- Khó khăn trong triển khai Nghị quyết 42:
+ Về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ và xử lý TSBĐ: Ngày 15/5/2018, Hội đồng Thẩm phán đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu... Tuy nhiên, hiện nay, số lượng các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Tòa án còn hạn chế49, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của biện pháp quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 42.
+ Về việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự: Hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật giải thích cụ thể về việc “ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án” theo quy định tại Điều 14 Nghị quyết số 42. Do đó, việc có hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là TSBĐ của khoản nợ xấu hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng.
+ Về cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSĐB: Hiện Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự không có hệ thống dữ liệu cho phép các TCTD trích xuất, tra cứu thông tin tài sản có liên quan đến vụ việc đang được thụ lý giải quyết. Đồng thời, chưa có hướng dẫn về cơ chế xác định sớm hữu hiệu trong quá trình thẩm định, để xác định tài sản nào đang tranh chấp, tài sản nào đang phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản theo Nghị quyết số 42.
Nhằm tạo điều kiện triển khai có hiệu quả Nghị quyết 42 và Đề án 1058, NHNN đề xuất:
- Chính phủ kiến nghị Quốc hội sửa Nghị quyết số 25/2016/QH14, Nghị quyết số 26/2016/QH14, Nghị quyết số 1023/NQ-UBTVQH1350 hoặc ban hành một Nghị quyết mới theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN (không bao gồm 03 ngân hàng mua bắt buộc).
- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo sát sao hơn trong quá trình triển khai nhiệm vụ cơ cấu lại hệ thống các TCTD, đặc biệt đối với các đề xuất của NHNN về phương án xử lý các TCTD yếu kém. Chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp và tham gia hỗ trợ tích cực cho quá trình cơ cấu lại, xử lý nợ xấu của các TCTD, đặc biệt là Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với NHNN trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến phương án tăng vốn của các NHTMNN và cổ phần hóa Agribank.
- Quốc hội yêu cầu: (i) Tòa án nhân dân tối cao sớm có văn bản gửi cơ quan Toà án địa phương yêu cầu các đơn vị này ưu tiên áp dụng các thủ tục rút gọn được quy định tại Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP khi giải quyết các vụ án liên quan đến xử lý nợ xấu; (ii) Tòa án nhân dân tối cao xem xét, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) sớm có văn bản chỉ đạo về việc hoàn trả các TSBĐ là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết 42; (iii) Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Cơ quan thi hành án dân sự sớm xây dựng hệ thống dữ liệu liên quan đến các vụ việc đang được thụ lý giải quyết và cho phép các TCTD được tra cứu, trích xuất các thông tin liên quan từ hệ thống dữ liệu này.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin gửi Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội./.
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chủ tịch Quốc hội; - Hội đồng dân tộc; - Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; - Đ/c Thủ tướng và các đ/c Phó Thủ tướng Chính phủ; - Đ/c Tổng Thư ký Quốc hội; - VPQH: HC (5b), PVHĐGS, Tin học; - Văn phòng Chính phủ: Vụ QHĐP; - Ban Lãnh đạo NHNN; - CQTTGSNH; Các Vụ: CSTT, TDCNKT, QLNH, PC, TT; - Lưu: VP, VP1 (2b). |
THỐNG ĐỐC (Đã ký) |