NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 68 /BC-NHNN Hà Nội, ngày 14 tháng 5 năm 2019
BÁO CÁO
Về việc thực hiện Nghị quyết số 113/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII
và các Nghị quyết của Quốc hội về hoạt động chất vấn
tại Kỳ họp thứ 2, 3, 4, 5, Quốc hội khóa XIV
Kính gửi: |
- Quốc hội; - Các vị Đại biểu Quốc hội. |
I. THÔNG TIN CHUNG
Thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 113/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII và các Nghị quyết của Quốc hội về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 2, 3, 4, 5, Quốc hội khóa XIV, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động nghiên cứu, rà soát, phân công các đơn vị chức năng triển khai quyết liệt, có hiệu quả những nội dung có liên quan đến lĩnh vực Ngân hàng. Trong đó, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) chủ động, linh hoạt, thận trọng; phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Điều hành các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với sức hấp thụ của nền kinh tế; chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
3. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD); triển khai hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, trong đó tập trung xử lý nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường; Tiếp tục phát huy vai trò của VAMC trong việc xử lý nợ xấu; củng cố, chấn chỉnh hoạt động hệ thống QTDND.
4. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng; triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
5. Triển khai tích cực Đề án thanh toán không dùng tiền mặt; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng.
Đến nay, về cơ bản NHNN đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao và đạt được mục tiêu Quốc hội, Chính phủ đề ra. Chủ động, linh hoạt trong điều hành CSTT phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, góp phần quan trọng vào việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Thành công trong việc giữ ổn định mặt bằng lãi suất trong điều kiện có nhiều sức ép tăng; lãi suất cho vay lĩnh vực ưu tiên tiếp tục giảm; thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao, niềm tin vào VND được củng cố; tăng trưởng tín dụng gắn với chất lượng và hiệu quả, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực là động lực cho tăng trưởng. Công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu được triển khai mạnh mẽ, đạt được kết quả quan trọng, giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống, quy mô và kết quả hoạt động tiếp tục được nâng cao; năng lực quản trị điều hành từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế; tính minh bạch và chất lượng dịch vụ ngân hàng từng bước được cải thiện. Hoạt động thanh toán tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ với nhiều sản phẩm, tiện ích ngân hàng mới, hiện đại được áp dụng; số lượng và giá trị thanh toán tăng trưởng mạnh; các rủi ro, nguy cơ mất an toàn cơ bản được nhìn nhận, kiểm soát và xử lý kịp thời. Các kết quả nêu trên đã góp phần tích cực giúp Việt Nam kiểm soát lạm phát ở mức thấp hơn mục tiêu do Quốc hội đề ra, tăng trưởng kinh tế đạt mức 7,08% cao nhất trong 11 năm qua.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO TẠI CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI (NĂM 2018 VÀ NHỮNG THÁNG ĐẦU NĂM 2019)
1. Điều hành chính sách tiền tệ, ngoại hối (Nghị quyết số 113/2015/QH13, Nghị quyết số 55/2017/QH14)
Trên cơ sở bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô tiền tệ, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và ngoại hối chủ động, linh hoạt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý và đảm bảo an toàn của hệ thống TCTD, kết quả đạt được như sau:
1.1. Điều hành đồng bộ và linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo thanh khoản cho hệ thống TCTD và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu: NHNN đã điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt thông qua chào mua, bán giấy tờ có giá với khối lượng, kỳ hạn và lãi suất phù hợp. Nhờ đó, điều tiết lượng tiền trong nền kinh tế ở mức hợp lý, duy trì sự ổn định trên thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó, NHNN cũng điều hành đồng bộ các công cụ khác như giữ ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng VND và ngoại tệ1; thực hiện tái cấp vốn đối với các TCTD để hỗ trợ thanh khoản, cho vay theo các chương trình đã được Chính phủ phê duyệt, hỗ trợ nguồn vốn giải quyết nợ xấu;... góp phần kiểm soát tiền tệ, không tạo ra áp lực gia tăng lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và mặt bằng lãi suất thị trường.
Đồng thời, CSTT được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa trong việc hỗ trợ phát hành trái phiếu Chính phủ với lãi suất hợp lý thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành về điều hành CSTT, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát, làm cơ sở để tính toán liều lượng, mức độ điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý phù hợp mục tiêu kiểm soát lạm phát chung, ổn định thanh khoản thị trường tiền tệ, ngoại tệ, giảm chi phí huy động vốn cho NSNN với kỳ hạn được kéo dài.
Kết quả là lạm phát bình quân trong những năm qua luôn duy trì ở mức thấp hơn mục tiêu do Quốc hội đề ra (khoảng 4%)2. Lạm phát cơ bản cũng được duy trì tương đối ổn định ở mức thấp, tạo dư địa để Chính phủ điều chỉnh giá các mặt hàng và dịch vụ Nhà nước quản lý (lạm phát cơ bản bình quân năm 2018 là 1,48%, 4 tháng đầu năm 2019 là 1,84%). Tính đến cuối tháng 4/2019, tổng phương tiện thanh toán tăng 3,42% so với cuối năm trước (cùng kỳ tăng 5,89%).
1.2. Duy trì ổn định mặt bằng lãi suất thị trường: Trong bối cảnh ngày càng nhiều yếu tố gây áp lực tăng lãi suất, NHNN chủ động điều tiết tiền tệ, hỗ trợ thanh khoản, lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp tạo điều kiện ổn định lãi suất của các TCTD. Chỉ đạo các TCTD cân đối vốn hợp lý, tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh để có điều kiện phấn đấu giảm lãi suất cho vay, đồng thời điều chỉnh tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn giảm dần theo lộ trình góp phần giảm áp lực lãi suất cho các TCTD.
Từ đầu năm 2019 đến nay, để tiếp tục góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ, cụ thể là: (i) Giữ nguyên các mức lãi suất điều hành của NHNN3; (ii) Giữ nguyên lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của các TCTD đối với các lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao 6,5%/năm; (iii) Giữ nguyên lãi suất tối đa bằng VND đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng4. Hiện lãi suất cho vay của các TCTD phổ biến khoảng 6-9%/năm đối với ngắn hạn, trung-dài hạn khoảng 9-11%/năm.
Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành Ngân hàng năm 2019, đồng tình với lời kêu gọi của Thống đốc NHNN, các NHTM Nhà nước đã giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực ưu tiên.
1.3. Điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, kết hợp điều tiết thanh khoản, lãi suất tiền VND hợp lý và chủ động truyền thông; bán ngoại tệ khi cần thiết để ổn định thị trường, bao gồm cả bán ngoại tệ kỳ hạn để định hướng kỳ vọng thị trường và hỗ trợ thanh khoản VND. Nhờ đó, tỷ giá tương đối ổn định, cân đối cung cầu ngoại tệ vẫn tương đối thuận lợi, thanh khoản thị trường diễn ra bình thường, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức, cá nhân được đáp ứng đầy đủ, kịp thời; NHNN mua ròng được ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước (DTNHNN).
Cuối năm 2018, tỷ giá trung tâm ở mức 22.825 VND/USD, tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng khoảng 23.200 VND/USD, tăng lần lượt 1,78% và 2,16% so với cuối năm 2017 (tương đối ổn định so với các đồng tiền mới nổi). Từ đầu năm 2019 đến giữa tháng 4, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, thanh khoản thị trường tốt, NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ bổ sung DTNHNN. Từ giữa tháng 4/2019, tỷ giá thị trường có xu hướng tăng và sau đó tăng nhanh từ ngày 06/5 chủ yếu do tác động của yếu tố bên ngoài liên quan đến những thông tin về đàm phán thương mại Mỹ-Trung làm gia tăng quan ngại về khả năng xung đột thương mại quốc tế diễn biến tiêu cực và leo thang. Đến ngày 13/5/2019, tỷ giá trung tâm ở mức 23.047 VND/USD, tăng 0,96% so với cuối năm 2018; tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng quanh mức 23.320 VND/USD, tăng khoảng 0,52%; tỷ giá của Vietcombank niêm yết ở mức 23.280VND/USD/23.400 VND/USD, tăng 0.54-0.67%.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về từng bước hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, đồng thời để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu giảm bớt chi phí vay vốn, tăng khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tham gia vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, NHNN đã thực hiện lộ trình kiểm soát cho vay ngoại tệ theo hướng: (i) Không quy định thời hạn đối với nhu cầu vốn cho vay ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu vốn ở trong nước nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay; (ii) Tiếp tục cho vay ngắn hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất, kinh doanh để trả nợ vay; (iii) Dừng cho vay ngắn hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa để phục vụ nhu cầu trong nước khi khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất, kinh doanh để trả nợ vay từ sau ngày 31/3/2019; (iv) Cho vay trung, dài hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ khi khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất, kinh doanh để trả nợ vay đến hết ngày 30/9/2019.
1.4. Tiếp tục thực hiện các giải pháp quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng phù hợp nhằm chuyển hóa các nguồn vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh: Thời gian qua, nhờ thực hiện các giải pháp hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế và sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý thị trường, Bộ Công an, tâm lý găm giữ ngoại tệ và vàng giảm, quy mô hoạt động trên thị trường phi chính thức, thị trường ngoại tệ tự do đang ngày càng thu hẹp và bám sát tỷ giá liên ngân hàng, nguồn cung ngoại tệ được cải thiện. Đặc biệt, việc áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm từ năm 2016 đã góp phần nâng cao vị thế của đồng Việt Nam, khuyến khích người dân có ngoại tệ bán cho hệ thống ngân hàng, tạo nguồn cung tăng DTNHNN. NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ bổ sung DTNHNN đưa quy mô DTNHNN lên mức cao nhất từ trước đến nay. Cùng với việc quy mô DTNHNN được cải thiện đáng kể, NHNN cũng theo dõi sát tình hình kinh tế thế giới, tình hình xếp hạng của các đối tác và áp dụng linh hoạt các công cụ đầu tư DTNHNN, đảm bảo công tác quản lý DTNHNN tuân thủ nguyên tắc an toàn, thanh khoản và sinh lời.
Tương ứng với lượng ngoại tệ mua được cho DTNHNN, NHNN đã cung ứng tiền đồng tương ứng đưa vào lưu thông, bổ sung thanh khoản VND cho toàn hệ thống, thực hiện việc chuyển hóa nguồn lực ngoại tệ thành nguồn vốn cho phát triển kinh tế, đồng thời áp dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác để vẫn đảm bảo được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Như vậy, bằng các giải pháp kiểm soát lạm phát ở mức thấp, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế, nguồn ngoại tệ trong tổ chức và dân cư đã được tập trung vào hệ thống ngân hàng và chuyển hóa thành nguồn vốn tiền đồng phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Thị trường vàng tiếp tục diễn biến ổn định và tự điều tiết tốt. Việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán về cơ bản đã được ngặn chặn, tập quán sử dụng vàng làm thước đo giá trị cũng dần thay đổi, việc huy động, cho vay vốn bằng vàng hoàn toàn chấm dứt; nguồn vốn bằng vàng từng bước chuyển thành tiền hoặc các tài sản khác phục vụ phát triển kinh tế xã hội. NHNN chưa phải sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu vàng, can thiệp thị trường.
2. Tín dụng tăng trưởng phù hợp với cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào lĩnh vực SXKD, lĩnh vực ưu tiên, tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro được kiểm soát chặt chẽ (Nghị quyết số 55/2017/QH14)
Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát, NHNN định hướng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm, có điều chỉnh linh hoạt phù hợp diễn biến, tình hình thực tế nhằm kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Năm 2018, tín dụng tăng 13,89% so với cuối năm 2017; năm 2019 (tính đến ngày 29/4/2019), tín dụng tăng 4,44% so với cuối năm 2018. Những năm gần đây, mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp hơn và được kiểm soát chặt chẽ hơn, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế tiếp tục tăng cao, cho thấy tín dụng được phân bổ hiệu quả và có chất lượng. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực, trong đó tín dụng tập trung vào lĩnh vực SXKD, lĩnh vực ưu tiên5; tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ6. Tín dụng ngoại tệ được kiểm soát phù hợp với lộ trình hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế. Các giải pháp điều hành tín dụng mà NHNN đã triển khai:
- Thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đến từng TCTD trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tín dụng lành mạnh; trong đó, ưu tiên chỉ tiêu cao hơn đối với TCTD thực hiện trước thời hạn các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016.
- Chỉ đạo TCTD nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung phân bổ tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán… Kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ và đưa ra lộ trình phù hợp giảm dần cho vay bằng ngoại tệ; tăng cường quản lý rủi ro đối với các dự án BOT, BT giao thông.
- Đẩy mạnh triển khai Chương trình kết nối ngân hàng doanh nghiệp trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố qua đối thoại trực tiếp nhằm kịp thời nắm bắt, tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tiếp cận vốn vay với lãi suất hợp lý. Trong năm 2018, đã có trên 420 cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ngân hàng và doanh nghiệp được tổ chức trên toàn quốc. Qua chương trình, các ngân hàng đã cam kết cho vay mới hơn 800.000 tỷ đồng, trong đó đã giải ngân gần 900.000 tỷ đồng cho trên 50.000 doanh nghiệp và một số đối tượng khác; thực hiện gia hạn nợ, cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ, giảm lãi suất cho gần 60.000 tỷ đồng đối với các khoản vay cũ cho gần 3.300 doanh nghiệp và một số đối tượng khách hàng khác. Trong những tháng đầu năm 2019, NHNN đã phối hợp với UBND 3 thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh) tổ chức các Hội nghị kết nối ngân hàng- doanh nghiệp, đồng thời giao cho giám đốc các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố khác chủ động tổ chức hội nghị này tại địa phương để tăng cường hiểu biết, chia sẻ và hợp tác giữa ngành ngân hàng và khách hàng nói chung, doanh nghiệp nói riêng.
- Chủ động triển khai nhiều giải pháp căn cơ, quyết liệt góp phần đẩy lùi tín dụng đen như: Thường xuyên hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng; Tổ chức thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích phát triển theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cũng như các chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; Tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định 116 sửa đổi bổ sung Nghị định 55 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn với nhiều điểm mới đột phá Có chính sách khuyến khích mở rộng mạng lưới của các TCTD đến các vùng sâu, vùng xa, các địa bàn nông nghiệp, nông thôn; Chỉ đạo các TCTD đổi mới quy trình, thủ tục cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục vay vốn, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay; dành nguồn vốn nhất định để phát triển các gói sản phẩm cho vay phục vụ đời sống/tiêu dùng phục vụ nhu cầu chính đáng của người dân đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khu công nghiệp, khu đông người lao động7; Đơn giản hóa và rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay; xác định thời gian cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn và khả năng trả nợ của khách hàng; tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tiếp tay cho các đối tượng xã hội đen cho vay nặng lãi.
Đặc biệt, vừa qua NHNN đã tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ sản xuất và tiêu dùng nhằm hạn chế tín dụng đen tại Gia Lai để triển khai các giải pháp cụ thể, quyết liệt, mạnh mẽ, đồng bộ nhằm đẩy mạnh tín dụng phục vụ sản xuất, tiêu dùng, góp phần hạn chế việc người dân tìm đến các nguồn vốn tín dụng không chính thức; mời đại diện lãnh đạo các tổ chức chính trị, chính trị xã hội (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) họp bàn đôn đốc triển khai quyết liệt các giải pháp đã đề ra.
* Đối với một số nhiệm vụ cụ thể:
a) Hoàn thiện chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn, chú trọng cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao
Ngày 07/9/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị định 55/2015/NĐ-CP nhằm đẩy mạnh đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Một trong các trọng tâm của Nghị định là bổ sung chính sách hướng tới nông nghiệp công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết một số khó khăn trong tiếp cận vốn của các khách hàng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực này, như bổ sung đối tượng vay vốn; giao các Bộ, ngành trình Thủ tướng Chính phủ quy định về tiêu chí xác định dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, làm cơ sở để TCTD thực hiện cho vay; TCTD được nhận tài sản hình thành từ vốn vay của dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp làm tài sản bảo đảm cho khoản vay của khách hàng.
b) Tình hình cho vay hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ
Đến hết ngày 31/12/2017 (thời điểm dừng kí kết mới hợp đồng cho vay đóng mới, nâng cấp tàu), các ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng đối với ngư dân để cho vay đóng mới, nâng cấp 1.178 tàu (1.032 tàu đóng mới và 146 tàu nâng cấp), chiếm 45,2% tổng số tàu cần đóng mới Bộ NN&PTNT phân bổ cho các địa phương và chiếm trên 58,2% tổng số tàu các địa phương đã phê duyệt, với tổng số tiền cam kết cho vay đạt trên 11.700 tỷ đồng. Đến cuối tháng 3/2019, dư nợ cho vay theo chương trình đạt khoảng 10.580 tỷ đồng.
Nợ xấu có xu hướng ngày càng gia tăng tại hầu hết các tỉnh, thành phố ven biển (đến cuối năm 2018, nợ xấu chiếm 17% tổng dư nợ cho vay). Ngoài một số nguyên nhân khách quan, bất khả kháng thì còn do nhiều ngư dân có thái độ chây ì, thiếu trách nhiệm trả nợ ngân hàng, coi đây là vốn ưu đãi của Nhà nước. Trước thực trạng này, NHNN đã kịp thời rà soát, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đề xuất đẩy nhanh việc thực hiện một số giải pháp đồng bộ từ các bộ, ngành trung ương đến chính quyền địa phương các cấp, các hiệp hội nhằm hỗ trợ ngư dân, hỗ trợ ngân hàng thương mại thu hồi nợ vay, tránh phát sinh nợ xấu. Theo đề xuất của NHNN, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 10048/VPCP-KTTH ngày 16/10/2018 chỉ đạo các địa phương, bộ ngành và các đơn vị liên quan triển khai thực hiện.
c) Về việc phát triển và quản lý Nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ
- Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị định 100/2015/NĐ-CP (Nghị định 100), NHNN đã ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn về cho vay, chỉ định 04 NHTM nhà nước tham gia thực hiện chương trình, quyết định về lãi suất cho vay. Bên cạnh đó NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành có liên quan xây dựng, trình Chính phủ về việc cấp nguồn vốn ngân sách thực hiện cho vay nhà ở xã hội, văn bản hướng dẫn về cấp bù chênh lệch lãi suất8.
- Về phía các TCTD: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 22/1/2018 quy định lãi suất đối với các khoản dư nợ cho vay tại TCTD do Nhà nước chỉ định cho khách hàng vay vốn để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở là 5%/năm áp dụng trong năm 2018 và Quyết định 18/2018/QĐ-TTg ngày 2/4/2018 hướng dẫn cấp bù chênh lệch lãi suất cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay là các TCTD được chỉ định chưa được bố trí nguồn ngân sách cấp bù chênh lệch lãi suất để cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100.
- Về phía Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH): Hiện nay, vốn ngân sách cấp cho NHCSXH giai đoạn 2016-2020 là 1.163 tỷ đồng (trong đó năm 2018 là 500 tỷ đồng). Đến thời điểm 31/3/2019, dư nợ cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP tại NHCSXH đạt 976 tỷ đồng với 3.049 khách hàng còn dư nợ. Ngày 16/1/2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có công văn số 393/BKHĐT-TCTT gửi NHNN, theo đó thực hiện chủ trương tại Nghị quyết 71/2018/QH14 của Quốc hội, Bộ KHĐT đang rà soát phương án dự kiến bố trí 2000 tỷ đồng cho NHCSXH để thực hiện cho vay theo Nghị định 100.
d) Triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH
Đến 30/4/2019, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 195.581 tỷ đồng, tăng 4,1% so với cuối năm 2018, với gần 6,7 triệu khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ tập trung ở một số chương trình: cho vay hộ nghèo đạt 37.290 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 19,07% tổng dư nợ); cho vay hộ cận nghèo đạt 31.234 tỷ đồng (chiếm 15,95% tổng dư nợ); cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 31.154 tỷ đồng (chiếm 15,93% tổng dư nợ); cho vay học sinh, sinh viên đạt 12.215 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 6,25% tổng dư nợ); cho vay hộ gia đình sản xuất kinh doanh và thương nhân vùng khó khăn đạt 22.983 tỷ đồng (chiếm 11,75% tổng dư nợ); cho vay giải quyết việc làm đạt 16.586 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 8,48% tổng dư nợ); cho vay nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn đạt 32.049 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 16,39% tổng dư nợ).
Riêng đối với chương trình cho vay học sinh, sinh viên, trên cơ sở kiến nghị của cử trị, vừa qua NHNN đã tích cực phối hợp với Bộ Tài chính (đơn vị chủ trì) báo cáo đề xuất Thủ tướng Chính phủ chấp thuận điều chỉnh nâng mức cho vay đối với học sinh, sinh viên từ 1,5 triệu đồng/tháng/HSSV dự kiến lên 2,5 triệu đồng/tháng/HSSV để đáp ứng kịp thời vốn cho học sinh, sinh viên.
3. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng; triển khai thi hành Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD và triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 113/2015/QH13, Nghị quyết số 55/2017/QH14)
NHNN tiếp tục tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng mà trọng tâm là ban hành 16 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật số 17/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD 2010, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, đảm bảo ổn định, an toàn hoạt động của các TCTD và lành mạnh thị trường tài chính tiền tệ9.
Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý, thanh tra, giám sát ngân hàng, trong năm 2018, NHNN đã nghiên cứu, hoàn thiện các quy định liên quan đến việc bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng10; quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài11; quy định về nội dung, trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng12; đang tập trung hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Cơ quan TTGSNH để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới theo hướng tinh gọn, hiệu quả13. Đồng thời, trên cơ sở tổng kết việc thi hành Nghị định 96/2014/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, hiện NHNN đang nghiên cứu, tổng hợp, giải trình ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan để hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 96/2014/NĐ-CP để trình Chính phủ xem xét, ban hành trong thời gian sớm nhất. Ngoài ra, trên cơ sở các kiến nghị sửa đổi, bổ sung để khắc phục những bất cập, sơ hở trong cơ chế, chính sách phát hiện qua công tác thanh tra, giám sát, NHNN tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý về an toàn hoạt động của các TCTD, phù hợp với điều kiện Việt Nam dần tiệm cận với các thông tệ quốc tế tốt nhất.
NHNN cũng đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan có liên quan rà soát để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập, xung đột pháp lý giữa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngành Ngân hàng với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật khác, ban hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa các giải pháp nêu tại Nghị quyết 42 của Quốc hội và Quyết định 1058 của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm khả thi, hiệu quả.
4. Tái cơ cấu, xử lý nợ xấu và tăng cường thanh tra, giám sát ngân hàng (Nghị quyết số 113/2015/QH13, Nghị quyết số 55/2017/QH14)
4.1. Tiếp tục triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD
Trên cơ sở các giải pháp quy định tại Đề án 1058 và thực trạng hoạt động của hệ thống các TCTD, NHNN chỉ đạo quyết liệt các TCTD hoàn thiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu. Đến nay, NHNN đã cơ bản hoàn thành việc phê duyệt Phương án hoặc có văn bản giao HĐQT/HĐTV rà soát, hoàn thiện, chịu trách nhiệm phê duyệt phương án cơ cấu lại của hầu hết các TCTD. Một số TCTD chưa được phê duyệt phương án chủ yếu là các NHTMCP đang thực hiện thủ tục sáp nhập; TCTD đang rà soát, bổ sung, hoàn thiện Phương án cơ cấu lại trên cơ sở kết luận thanh tra; các TCTD yếu kém đang xử lý theo phương án đặc thù.
Công tác cơ cấu lại các TCTD đã đạt được những kết quả quan trọng theo đúng mục tiêu, lộ trình đề ra tại Đề án, tạo sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD, thể hiện ở những mặt sau:
- Năng lực tài chính của các TCTD tiếp tục được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm14: Đến cuối tháng 3/2019, vốn điều lệ của toàn hệ thống đạt 578,9 nghìn tỷ đồng, tăng 0,45% so với cuối năm 2018 và tăng 13% so với cuối năm 2017; vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống đạt 792,6 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với cuối năm 2018 và 20,1% so với cuối năm 2017. Việc triển khai Basel II được tập trung thực hiện để đáp ứng các thông lệ quốc tế về an toàn vốn. Đến nay, đã có 07 NHTM được NHNN công nhận đạt chuẩn Basel II, gồm: Vietcombank, VIB, OCB, MB, VPBank, TPBank, ACB.
- Chất lượng tín dụng được cải thiện: Các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các TCTD. Bên cạnh đó, Nghị quyết 42 bước đầu đã phát huy hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để xử lý nợ xấu và tiếp tục duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức dưới 3%, đến cuối tháng 3/2019 là 2,02%.
- Năng lực quản trị điều hành, hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ và quản lý rủi ro của các TCTD từng bước được nâng cao để tiệm cận với thông lệ quốc tế, sự minh bạch trong hoạt động của hệ thống các TCTD đã được nâng cao một bước.
- Các NHTM do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ (NHTMNN) tiếp tục đóng vai trò chi phối trong hệ thống các TCTD15. NHNN đã hoàn thành việc phê duyệt phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2017-2020 của 4/4 NHTMNN. Đồng thời, để đảm bảo các NHTMNN đáp ứng mức đủ vốn theo chuẩn mực vốn Basel II (phương pháp tiêu chuẩn), NHNN đang tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư để xử lý vấn đề tăng vốn cho các NHTMNN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
- Đối với các ngân hàng mua lại bắt buộc và ngân hàng Đông Á (DAB): Trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD được Quốc hội thông qua, triển khai chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã trình cấp có thẩm quyền phương án xử lý, cơ cấu lại các ngân hàng. Sau khi được phê duyệt chủ trương, NHNN đã khẩn trương tiến hành các bước để tái cơ cấu và xử lý 03 ngân hàng mua bắt buộc và DAB đảm bảo đúng quy định của pháp luật; theo đó, thực hiện kiểm toán độc lập đánh giá thực trạng tài chính, xác định giá trị thực của vốn điều lệ và quỹ dự trữ để làm cơ sở triển khai các bước tiếp theo phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Đến nay, trên cơ sở phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, NHNN đã hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phương án chuyển nhượng và cơ cấu lại Ngân hàng Đại Dương sau chuyển nhượng cho nhà đầu tư nước ngoài. Phương án cơ cấu lại các Ngân hàng Xây dựng, Dầu khí Toàn Cầu, DAB đang được khẩn trương hoàn thiện để trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật.
- Đối với hệ thống QTDND: NHNN tập trung chỉ đạo các đơn vị trong Ngành triển khai các giải pháp nhằm tăng cường củng cố hệ thống QTDND, tập trung xử lý QTDND yếu kém. Theo đó, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Chính trị phương án xử lý đối với QTDND yếu kém nhằm xử lý dứt điểm tình trạng hoạt động kém lành mạnh của một số QTDND, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát. NHNN cũng đã tổ chức các đoàn công tác làm việc trực tiếp tại một số địa phương có nhiều QTDND để nắm bắt thêm tình hình hoạt động, các khó khăn, vướng mắc. Tập trung chỉ đạo xử lý các vụ việc phát sinh liên quan đến QTDND yếu kém trên một số địa bàn như Đồng Nai, Bắc Ninh… Trên cơ sở đó, cùng với kết quả và kinh nghiệm xử lý các QTDND yếu kém trong thời gian gần đây, sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN đã ban hành Đề án củng cố và phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; đồng thời trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 12/3/2019 về tăng cường giải pháp nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống QTDND. Hiện NHNN đang tích cực triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Đề án và Chỉ thị.
- Về xử lý nợ xấu nội bảng (theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN): NHNN đã chỉ đạo các TCTD tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới; tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc khách hàng trả nợ; bán, phát mãi tài sản bảo đảm (TSBĐ) của khoản nợ; bán nợ theo cơ chế thị trường; sử dụng dự phòng rủi ro; tích cực áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42. Nhờ đó, nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD tiếp tục được xử lý, kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%. Tính từ năm 2012 đến cuối tháng 3/2019, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 907,3 nghìn tỷ đồng nợ xấu16, trong đó riêng trong năm 2018, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 163,14 nghìn tỷ đồng nợ xấu17, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 3/2019 là 2,02%.
Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống TCTD đến 3/2019 ở mức 5,88%, giảm mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016 và mức 7,36% cuối năm 2017.
- Về kết quả xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42: Lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 3/2019, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 227,86 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 4218, trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng đạt 117,8 nghìn tỷ đồng19.
- Kết quả mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC:
+ Đối với việc mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt, lũy kế từ 2013 đến 3/2019, VAMC mua nợ xấu đạt 338.849 tỷ đồng dư nợ gốc nội bảng tương ứng với giá mua nợ là 307.567 tỷ đồng.
+ Mua nợ theo giá trị thị trường, lũy kế đến 3/2019, VAMC đã mua được 46 khoản nợ với dư nợ gốc đạt 5.882 tỷ đồng và giá mua bán nợ đạt 5.960 tỷ đồng.
+ Lũy kế từ 2013 đến 3/2019, VAMC đã phối hợp với các TCTD thu hồi nợ ước đạt 120.511,6 tỷ đồng. Đặc biệt từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, kết quả thu hồi nợ của VAMC trong năm 2017, 2018 ước đạt 67.891 tỷ đồng, gần bằng 57% tổng giá trị thu hồi nợ lũy kế từ năm 2013 đến năm 2018.
4.3. Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát, kiểm tra, kiểm soát nội bộ; Rà soát để xử lý dứt điểm tình trạng sở hữu chéo; Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hệ thống; Quản lý hoạt động cho vay của các công ty tài chính, hoạt động cho vay tiêu dùng
* Về hoạt động thanh tra, giám sát:
- Thực hiện các nhiệm vụ được giao tại các Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, NHNN tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý kiên quyết các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD, thúc đẩy các TCTD triển khai nghiêm túc, có hiệu quả Đề án 1058. Công tác thanh tra được đổi mới, gắn kết chặt chẽ với công tác giám sát, từng bước kết hợp và áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro, hướng tới ngăn chặn, cảnh báo sớm các rủi ro có khả năng phát sinh.
Từ năm 2018 đến nay, NHNN đã thực hiện 1.670 cuộc thanh tra, kiểm tra20 (1.107 cuộc thanh tra và 563 cuộc kiểm tra); ban hành kết luận thanh tra, biên bản kiểm tra đối với 1.159 cuộc thanh tra, kiểm tra (bao gồm cả các cuộc thanh tra, kiểm tra chưa ban hành kết luận trong kỳ trước chuyển sang)21. Các cuộc thanh tra được triển khai nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nội dung và kế hoạch thanh tra. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, những hạn chế, tồn tại, sai phạm của các TCTD đã được phát hiện và xử lý. NHNN đã đưa ra 12.131 kiến nghị, yêu cầu TCTD khắc phục tồn tại, sai phạm; ban hành 208 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với TCTD và doanh nghiệp, cá nhân với tổng số tiền phạt trên 16,51 tỷ đồng22. Ngoài ra, NHNN cũng đã áp dụng một số biện pháp xử lý đối với tổ chức, cá nhân nhằm kiện toàn tổ chức, ổn định bộ máy hoạt động tại một số TCTD (trong đó chủ yếu là tại các Quỹ Tín dụng nhân dân). Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và xử lý sau thanh tra tiếp tục được quan tâm thực hiện chặt chẽ, sát sao nhằm bảo đảm TCTD thực hiện nghiêm túc các kiến nghị, kết luận về thanh tra, kiểm tra.
Công tác giám sát ngân hàng tiếp tục được đổi mới và tăng cường trên cơ sở hoàn thiện, triển khai các công cụ, phương pháp giám sát mới gắn liền với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển cơ sở dữ liệu và hệ thống tiêu chí giám sát nhằm nâng cao khả năng cảnh báo sớm của NHNN đối với những rủi ro tiềm ẩn mang tính hệ thống và ngăn ngừa nguy cơ vi phạm pháp luật ngân hàng của các TCTD. Trong thời gian vừa qua, về cơ bản hoạt động giám sát ngân hàng đã đạt được một số kết quả tích cực: (i) có sự kết nối với việc xây dựng kế hoạch thanh tra và thực hiện thanh tra; (ii) nhận dạng, đánh giá các rủi ro tiềm ẩn để kịp thời đưa ra các văn bản cảnh báo về việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và quản trị rủi ro đối với các hoạt động có nguy cơ rủi ro cao; (iii) tiếp xúc, làm việc với các đối tượng giám sát và đề xuất nội dung thanh tra phù hợp.
Trên cơ sở những sai phạm, rủi ro phát hiện qua công tác giám sát, NHNN đã có 405 văn bản chấn chỉnh, cảnh báo rủi ro, yêu cầu TCTD tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động, báo cáo nguyên nhân và biện pháp xử lý để giảm thiểu rủi ro23.
Bên cạnh đó, đối với hoạt động trung gian thanh toán, NHNN đã có nhiều văn bản chỉ đạo các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (TGTT) thực hiện các biện pháp tăng cường an ninh, bảo mật trong hoạt động trung gian thanh toán; bảo đảm đáp ứng điều kiện hoạt động, rà soát bổ sung, hoàn thiện quy trình nhận diện khách hàng. Trong năm 2018, thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 12 tổ chức TGTT. Trên cơ sở các sai phạm được phát hiện, NHNN đã kịp thời đưa ra các kiến nghị yêu cầu tổ chức TGTT khắc phục chỉnh sửa, đồng thời xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật24. Ngoài ra, NHNN đã thu hồi Giấy phép của 01 tổ chức do vi phạm quy định về trung gian thanh toán25.
* Về xử lý tình trạng sở hữu chéo: Nhằm tiếp tục hạn chế, khắc phục tình trạng vi phạm sở hữu cổ phần, sở hữu chéo, NHNN đã thực hiện một số giải pháp xử lý bao gồm các giải pháp chính sách và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý26; thanh tra, giám sát và tái cơ cấu các TCTD; đồng thời phối hợp với các cơ quan liên quan (Ủy ban chứng khoán Nhà nước), Bộ, ngành và UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các DNNN để đẩy nhanh tiến độ thoái vốn góp, vốn cổ phần tại các TCTD theo chỉ đạo của Chính phủ và các giải pháp, lộ trình đã đề ra. Kết quả, các TCTD đã cơ bản xử lý, khắc phục được một số vi phạm sở hữu cổ phần, sở hữu chéo, cụ thể: (i) Số cặp TCTD sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau về cơ bản đến thời điểm cuối tháng 12/2018 đã khắc phục được hết (năm 2012:7 cặp); (ii) Sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp giảm, đến tháng 12/2018 còn lại 01 NHTMCP với 01 cặp sở hữu cổ phần lẫn nhau27 (tại thời điểm tháng 6/2012 có 56 cặp).
* Về quản lý hoạt động cho vay của các công ty tài chính, hoạt động cho vay tiêu dùng:
- Đối với hoạt động của các công ty tài chính: Trên toàn hệ thống hiện có 16 công ty tài chính đang hoạt động, trong đó có 11 công ty tài chính tín dụng tiêu dùng. NHNN thực hiện giám sát thường xuyên về tình hình tài chính và những vấn đề cần lưu ý đối với các công ty tài chính theo 2 nhóm (công ty tài chính hoạt động bình thường và công ty tài chính hoạt động yếu kém) đối với các nội dung: huy động vốn, cho vay, chất lượng tài sản, kết quả kinh doanh, tình hình thanh khoản, việc thực hiện các tỷ lệ an toàn trong hoạt động...
Từ năm 2017 đến nay, NHNN đã tiến hành 05 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với công ty tài chính. Qua đó, NHNN đã chỉ ra một số tồn tại, hạn chế về hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng tiêu dùng nói riêng, đưa ra các kiến nghị, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật28. Kịp thời có các văn bản chỉ đạo, cảnh báo các công ty tài chính có tồn tại, rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động nhằm kịp thời xử lý các tồn tại, sai phạm tại từng đơn vị, tiếp tục chỉ đạo các công ty tài chính tuân thủ nghiêm túc các quy định pháp luật hiện hành.
- Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng: NHNN đã hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng, trong đó có tín dụng tiêu dùng, như: Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng; Thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 về hoạt động cho vay tiêu dùng của công ty tài chính. Các quy định hiện hành về hoạt động cho vay tiêu dùng của cả NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty tài chính đã phù hợp với quy định của pháp luật liên quan, điều kiện thực tế và đặc thù hoạt động cho vay tiêu dùng, qua đó tạo điều kiện cho người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và đảm bảo hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển bền vững.
Nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, giám sát hoạt động của công ty tài chính và hoạt động cho vay tiêu dùng, ngăn ngừa hành vi gian lận, vi phạm các quy định của pháp luật, NHNN đã có công văn chỉ đạo TCTD, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố chấn chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng, phục vụ nhu cầu đời sống đối với các công ty tài chính tiêu dùng, chi nhánh và văn phòng đại diện của công ty tài chính tiêu dùng29. Yêu cầu các TCTD, công ty tài chính tiêu dùng rà soát các quy định nội bộ, đảm bảo ban hành đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt các quy định nội bộ về cho vay phục vụ đời sống, cho vay tiêu dùng, quản lý tiền vay, quy trình thu hồi nợ. Thực hiện nghiêm và công khai, minh bạch các quy định về lãi suất, phí, nguyên tắc, phương pháp tính lãi và phí, các biện pháp thu hồi nợ đúng quy định. Tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 08/01/2019 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của Ngành ngân hàng trong năm 2019, NHNN đã chỉ đạo các đơn vị tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các công ty tài chính tiêu dùng, đồng thời yêu cầu các công ty tài chính tiêu dùng chấn chỉnh lại hoạt động cho vay, thu nợ đảm bảo minh bạch, có chính sách lãi suất phù hợp, phương thức thu nợ đúng quy định pháp luật. NHNN đang tổng hợp ý kiến của các tổ chức, cá nhân liên quan, hoàn thiện dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 43/2016/TT-NHNN theo các định hướng, mục tiêu quản lý nhà nước nêu trên nhằm tạo môi trường pháp lý cho hoạt động cho vay tiêu dùng an toàn, lành mạnh, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.
* Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phòng, chống rửa tiền:
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ năm 2018 đến nay tiếp tục được triển khai nghiêm túc trong toàn ngành Ngân hàng thông qua các hoạt động phổ biến, quán triệt các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường thanh tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác tự kiểm tra của các TCTD. Qua hoạt động tự kiểm tra nội bộ, các TCTD phát hiện 8 vụ việc có dấu hiệu tiêu cực, vi phạm pháp luật với tổng số tiền vi phạm là 31,9 tỷ đồng30. Qua hoạt động thanh tra, ngành ngân hàng phát hiện 04 vụ việc có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật; tổng số tiền vi phạm: 49, 6 tỷ đồng. Toàn ngành đã chuyển hồ sơ 04 vụ việc sang cơ quan điều tra để xử lý theo quy định pháp luật.
Công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần phòng, chống tội phạm trong nước và quốc tế, bảo vệ an ninh tài chính - tiền tệ quốc gia và sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Từ năm 2018 đến tháng 4/2019, NHNN đã nhận được 2.151 báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các đối tượng báo cáo, trong đó, đã chuyển giao thông tin cho cơ quan chức năng có thẩm quyền 202 vụ việc31. Ngoài ra, NHNN đã nhận được 291 văn bản/vụ việc từ các cơ quan có thẩm quyền đề nghị cung cấp thông tin32; đến nay, đã xử lý và chuyển giao, cung cấp thông tin gần 100% văn bản/vụ việc nêu trên, trong đó có những vụ việc liên quan đến các vụ án về tham nhũng, trốn thuế, tổ chức đánh bạc trên internet...
Hiện NHNN đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành để chuẩn bị cho đợt đánh giá đa phương của nhóm Châu Á-Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG) và tài trợ khủng bố của Việt Nam diễn ra vào năm 201933. NHNN đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 474/QĐ-TTg ngày 30/4/2019 phê duyệt, ban hành Báo cáo đánh giá rủi ro Quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố của Việt Nam giai đoạn 2012-2017, Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2019-2020; Quyết định số 475/QĐ-TTg ngày 30/4/2019 ban hành Kế hoạch tổng thể cho đánh giá đa phương của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố. Đồng thời, NHNN đã tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và làm việc với Chuyên gia tư vấn Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) xây dựng Báo cáo tuân thủ kỹ thuật (Báo cáo TC) và Báo cáo tính hiệu quả của Việt Nam (Báo cáo IO). Đối với Báo cáo TC, ngày 03/5/2019, thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN đã ký Công văn số 507/TTg-KTTH gửi Báo cáo cho Đoàn đánh giá đa phương của APG. Đối với Báo cáo IO, NHNN tiếp tục đôn đốc các Bộ, ngành cung cấp thông tin, số liệu để hoàn thiện Báo cáo, gửi APG vào tháng 7/2019. Bên cạnh đó, NHNN đang nghiên cứu, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền và dự kiến trình Chính phủ duyệt ký ban hành trong tháng 11/2019.
NHNN luôn phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan trong công tác phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là Cơ quan Công an, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Tòa án, Ban Nội chính Trung ương, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trong việc cảnh báo, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng thông qua trao đổi, cung cấp thông tin, hồ sơ tài liệu và tiến hành giám định tư pháp. NHNN đã chủ động và kịp thời cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu cho cơ quan công an và tòa án để hỗ trợ cho quá trình điều tra, xét xử các vụ án liên quan đến ngành Ngân hàng.
5. Triển khai tích cực Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; đẩy mạnh ứng dụng và bảo đảm an ninh, an toàn công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng (Nghị quyết số 55/2017/QH14)
Nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho người dân theo chủ trương của Chính phủ, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới, hiện đại vào các sản phẩm, dịch vụ thanh toán đảm bảo tiện ích, an toàn, chi phí hợp lý. Tiếp tục theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (Quyết định 2545/QĐ-TTg ngày 31/12/2016) và Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công như thu thuế, điện, nước sinh hoạt, học phí, viện phí, chi trả các chương trình an sinh xã hội (Quyết định 241/QĐ-TTg ngày 23/2/2018). Đồng thời, NHNN đã có văn bản số 2198/NHNN-TT ngày 29/3/2019 chỉ đạo các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đẩy mạnh thanh toán điện tử trong lĩnh vực dịch vụ công.
Hiện nay, việc quản lý thanh toán bằng tiền mặt thực hiện theo Nghị định 222/2013/NĐ-CP ngày 31/12/2013 của Chính phủ, trong đó quy định hạn chế thanh toán bằng tiền mặt đối với các tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, tổ chức sử dụng vốn nhà nước; các giao dịch chứng khoán, giao dịch tài chính của doanh nghiệp và giải ngân vốn cho vay. Ngoài quy định này, pháp luật hiện hành chưa có quy định bắt buộc một số giao dịch có giá trị lớn như mua bán BĐS, tài sản có giá trị lớn phải thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt. Để hạn chế thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế theo chủ trương, định hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ34, NHNN đang nghiên cứu một số chính sách nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt đối với các giao dịch BĐS và tài sản có giá trị lớn.
Cùng với công tác chỉ đạo phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, NHNN cũng đặc biệt chú trọng chỉ đạo, điều hành công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung thông qua nhiều biện pháp như: (i) Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tăng cường công tác an ninh công nghệ thông tin, an toàn trong lĩnh vực thanh toán dựa trên các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, đảm bảo hệ thống thông tin của ngành Ngân hàng đủ sức ứng phó với các rủi ro, thách thức về an ninh thông tin trên không gian mạng; (ii) Ban hành các văn bản chỉ đạo, cảnh báo, chấn chỉnh các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật và thực hiện các biện pháp tăng cường an ninh, bảo mật trong hoạt động thanh toán và trung gian thanh toán; (iii) Triển khai áp dụng các giải pháp tăng cường an ninh, an toàn đối với hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho thanh toán; (iv) Triển khai các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn, xử lý các hành vi lợi dụng hình thức thanh toán qua ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán để thực hiện hoạt động bất hợp pháp như: thanh toán xuyên biên giới trái phép, đánh bạc, rửa tiền, giả mạo thẻ, lấy cắp thông tin người sử dụng,...; (v) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đảm bảo các hệ thống thanh toán hoạt động an toàn, hiệu quả đối với hoạt động nghiệp vụ và hệ thống công nghệ của các tổ chức cung cứng dịch vụ thanh toán.
Nhận thức được lợi ích của Fintech đối với đa dạng hóa các dịch vụ tài chính - ngân hàng, NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech nhằm nghiên cứu và xử lý những vấn đề liên quan đến khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện hệ sinh thái Fintech ở Việt Nam, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, hài hòa của hệ thống ngân hàng, cũng như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp Fintech, phù hợp với chủ trương và định hướng của Chính phủ. Hiện, NHNN đang hoàn thiện Đề án “Áp dụng cơ chế quản lý thử nghiệm cho hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng” trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Với giải pháp đồng bộ, chủ động nêu trên, hoạt động thanh toán tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ với nhiều sản phẩm, tiện ích ngân hàng mới, hiện đại được áp dụng; số lượng và giá trị thanh toán tăng trưởng mạnh; các rủi ro, nguy cơ mất an toàn cơ bản được nhìn nhận, kiểm soát và xử lý kịp thời. Trong Quý I/2019, số lượng giao dịch thanh toán nội địa qua thẻ ngân hàng đạt hơn 65 triệu giao dịch (tăng 18,45% so với cùng kỳ năm 2018. Số lượng giao dịch tài chính qua kênh Internet đạt hơn 101 triệu giao dịch với giá trị giao dịch khoảng 4.580 nghìn tỷ đồng (tăng tương ứng 65,81% và 13,46% so với cùng kỳ năm 2018); số lượng giao dịch tài chính qua kênh điện thoại di động đạt hơn 76 triệu giao dịch, với giá trị giao dịch hơn 924 nghìn tỷ đồng (tăng tương ứng 97,75% và 232,3% so với cùng kỳ năm 2018).
III- KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Khó khăn, vướng mắc
1.1. Đối với hoạt động tín dụng
- Việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng do: i) Quy định pháp luật đối với thị trường BĐS còn nhiều bất cập, đặc biệt là các quy định điều chỉnh đối với một số loại hình bất động sản mới; ii) Đầu tư kinh doanh bất động sản là kênh đầu tư có kỳ vọng lợi nhuận cao dễ dẫn đến đầu cơ trên thị trường; iii) Vẫn còn tình trạng mất cân đối cung cầu tại một số phân khúc bất động sản…
- Việc cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông tiềm ẩn rủi ro trong dài hạn vì đây là các dự án có tổng mức đầu tư lớn, thời gian cho vay dài; năng lực tài chính của chủ đầu tư hạn chế; tài sản đảm bảo chủ yếu là quyền thu phí trong khi chính sách phí chưa thực sự ổn định; nguy cơ chuyển nợ sang nhóm nợ xấu rất lớn;..
- Việc cấp tín dụng đối lĩnh vực chứng khoán cũng tiềm ẩn rủi ro do thị trường chứng khoán Việt Nam còn hạn chế so với các thị trường phát triển, chuẩn mực kế toán và minh bạch thông tin còn khoảng cách so với quốc tế; khung pháp lý về hoạt động của thị trường chứng khoán chưa hoàn thiện, tiềm ẩn rủi ro đối với nhà đầu tư cũng như an toàn vốn tín dụng.
- Việc triển khai một số chương trình tín dụng đặc thù còn gặp nhiều khó khăn như: nợ xấu chương trình cho vay hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu cá ngày càng gia tăng (đến cuối năm 2018, nợ xấu chiếm 17%) một phần do người dân thiếu ý thức trả nợ vay, các ngân hàng chậm được Bộ Tài chính quyết toán số tiền lãi đã hỗ trợ cho khách hàng vay vốn nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định 68/2013/QĐ-TTg,...
- Vừa qua, hoạt động tín dụng đen diễn biến phức tạp, gây nhiều hệ lụy đến đời sống của người dân, ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội và hoạt động ngân hàng. Đối tượng vay tín dụng đen chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu không chính đáng, bất hợp pháp (cá độ, lô đề, cờ bạc,...) hoặc không đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng; các đối tượng cho vay tín dụng đen sử dụng nhiều biện pháp để khống chế người vay (chỉ ghi nhận nợ là tổng số nợ, hoặc ghi nhận tiền chạy việc,...). Tuy nhiên, hiện nay quy định pháp luật còn bất cập, các cơ quan tư pháp khó quy kết hành vi cho vay nặng lãi theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
1.2. Đối với công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các TCTD
- Việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ của NHTM có vốn Nhà nước nhằm đảm bảo vai trò chỉ đạo của các ngân hàng này trên thị trường tài chính tiền tệ thời gian qua gặp nhiều khó khăn. Tổng số vốn cần đầu tư, bổ sung cho các NHTM có vốn Nhà nước là khá lớn để đảm bảo đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II trong khi nguồn lực Nhà nước có thể được sử dụng để tăng vốn cho các ngân hàng này cũng hết sức hạn chế. Do đó, cần có biện pháp xử lý phù hợp, trong đó có việc giữ lại lợi nhuận của ngân hàng hoặc chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng năng lực tài chính cho các NHTM có vốn nhà nước.
- Việc triển khai cơ cấu lại 03 ngân hàng mua bắt buộc là một quá trình khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ, phải phối hợp chặt chẽ và lấy ý kiến của nhiều Bộ, ngành và các cơ quan liên quan. Với thực trạng tài chính hiện nay của các ngân hàng, việc tìm kiếm nhà đầu tư có năng lực tài chính và năng lực quản trị tham gia xử lý, cơ cấu lại các ngân hàng này gặp rất nhiều khó khăn và phụ thuộc vào kết quả đàm phán với các nhà đầu tư.
- Tiến độ xử lý cơ cấu lại đối với một số TCTD phi ngân hàng có chủ sở hữu/cổ đông lớn là các Tập đoàn/Tổng Công ty nhà nước còn chậm, phụ thuộc vào nội dung phương án cơ cấu lại tổng thể của Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước. Trong khi đó, việc cơ cấu lại các Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ hoặc các Bộ, ngành chủ quản. Đồng thời, nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn đang gặp khó khăn về tài chính, thiếu nguồn lực để xử lý tổn thất và thực hiện cơ cấu lại các TCTD phi ngân hàng này.
- Việc xử lý nợ xấu của các TCTD yếu kém gặp nhiều khó khăn do để xử lý dứt điểm nợ xấu, thu hồi tài sản không sinh lời của các TCTD này đòi hỏi phải có cơ chế phân bổ tổn thất, giảm nhẹ gánh nặng tài chính bằng chính sách tài chính phù hợp để TCTD hấp thụ dần tổn thất, vượt qua được khó khăn tài chính. Bên cạnh đó, việc xử lý, thu hồi nợ và TSBĐ của các ngân hàng mua bắt buộc khó khăn do phần lớn TSBĐ cho các khoản nợ đều đang bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh.
- Khó khăn trong triển khai Nghị quyết 42:
+ Về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ và xử lý TSBĐ: Ngày 15/5/2018, Hội đồng Thẩm phán đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu... Hiện nay, số lượng các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Tòa án còn rất hạn chế. Để đảm bảo triển khai tốt các quy định này, kiến nghị Tòa án Nhân dân tối cao có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp triển khai đầy đủ, thống nhất các quy định này trong thực tiễn xét xử.
+ Về công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự:
Tại một số địa phương, hoạt động thi hành án ngân hàng còn chưa thật sự hiệu quả, nhiều vụ việc thi hành án còn tồn đọng thời gian dài, phát sinh nhiều chi phí cho đơn vị xử lý nợ.
+ Các khó khăn liên quan đến các quy định của pháp luật về TSBĐ:
Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 chưa có hướng dẫn đối với trường hợp liên quan đến quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm cho khoản nợ mà các cá nhân, tổ chức mua lại từ VAMC đã được quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị quyết 42. Bên cạnh đó, Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT cũng chưa có hướng dẫn đối với trường hợp bên mua nợ là cá nhân được đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm.
Các quy định về điều kiện chuyển nhượng của Luật đất đai hiện hành đang gây khó khăn cho bên nhận thế chấp trong dự án bất động sản (đặc biệt đối với trường hợp nhận thế chấp dự án nhà ở) khi xử lý TSBĐ là dự án bất động sản chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà mới chỉ có Quyết định giao đất, cho thuê đất. Trong khi Nghị quyết số 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD đã cho phép chuyển nhượng TSBĐ của khoản nợ xấu là dự án bất động sản (trong đó bao gồm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất) khi có quyết định giao đất, cho thuê đất.
+ Về mua bán khoản nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ:
Việc phát triển thị trường mua, bán nợ hiện vẫn còn gặp một số khó khăn như:
(i) Về xác định giá trị khoản nợ làm căn cứ để bên mua, bán nợ tham khảo. Việc thẩm định giá khoản nợ đang được các tổ chức thẩm định giá thực hiện chưa theo quy chuẩn thống nhất do có sự khác biệt về phương pháp, tiêu chí định giá giữa các tổ chức thẩm định giá. Điều này gây khó khăn cho bên mua, bên bán khoản nợ trong việc lựa chọn giá tham khảo phù họp cho giao dịch mua, bán nợ.
(ii) Thiếu thị trường thứ cấp và phái sinh đối với các khoản nợ. Sau khi mua các khoản nợ, bên mua nợ thực hiện quản lý, khai thác và vận hành TSBĐ cũng như rủi ro thanh khoản liên quan tới các TSBĐ này. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng hoặc ủy thác quản lý các khoản nợ này còn khó khăn vì chưa có thị trường nợ thứ cấp. Tương tự, hiện tại chưa có các hoạt động phái sinh như nghiệp vụ chứng khoán hóa tài sản, chứng khoán hóa nợ thường và nợ xấu. Điều này dẫn đến thanh khoản của các khoản nợ rất thấp, làm giảm mức độ hấp dẫn của các khoản nợ đã mua.
2. Kiến nghị, đề xuất
2.1 Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
- Nhằm tạo điều kiện triển khai có hiệu quả Nghị quyết 42 và Đề án 1058, NHNN đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo sát sao quá trình triển khai nhiệm vụ cơ cấu lại hệ thống các TCTD, đặc biệt đối với các đề xuất của NHNN về phương án xử lý các TCTD yếu kém; đồng thời, chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp chặt chẽ và tham gia hỗ trợ tích cực cho quá trình cơ cấu lại, xử lý nợ xấu của các TCTD, cụ thể giao:
(i) Bộ Tài chính nghiên cứu và phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu tháo gỡ các vướng mắc về pháp lý, tham mưu Chính phủ trình Quốc hội xem xét, sửa đổi hoặc ban hành một Nghị quyết mới của Quốc hội theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN (ngoại trừ các NHTM mua bắt buộc); trình Chính phủ sửa đổi phạm vi đầu tư bổ sung vốn nhà nước quy định tại Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 32/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018; Tiếp tục đẩy mạnh triển khai giải pháp về xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước trung ương, địa phương và nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, nợ xấu cho vay theo các chương trình dự án, chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh; Có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan thuế rõ ràng và cụ thể hơn để thực hiện đúng Nghị quyết 42 về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSĐB và nghĩa vụ nộp thuế; Xem xét, nghiên cứu, bổ sung trường hợp việc sang tên, đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu bất động sản liên quan đến việc xử lý nợ xấu của TCTD vào trường hợp tạm thời chưa thu thuế.
(ii) Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, sớm có văn bản hướng dẫn đối với trường hợp: nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm cho khoản nợ mà các cá nhân, tổ chức mua lại từ VAMC quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị quyết 42; bên mua nợ là cá nhân được đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; Có văn bản chỉ đạo các văn phòng đăng ký đất đai thực hiện đúng các quy định tại Nghị quyết 42 về chuyển nhượng TSĐB của khoản nợ xấu là dự án bất động sản chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, không yêu cầu phải có điều kiện là sự đồng ý của Bên thế chấp; Thực hiện thống nhất quy định tại Nghị định 53/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung) và Thông tư liên tịch 09/2016/TT- BTP-BTNMT.
(iv) Bộ Tư pháp tiếp tục chỉ đạo Tổng Cục Thi hành án dân sự rà soát lại những vụ việc thi hành án còn tồn đọng, liên quan đến xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ; có văn bản chỉ đạo các cơ quan thi hành án địa phương cần tập trung và quyết liệt hơn nữa để giải quyết dứt điểm các vụ việc đang thi hành án.
(v) Bộ Công an có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể cơ quan công an các cấp phối hợp với các cấp chính quyền địa phương các nội dung liên quan để triển khai hiệu quả chính sách tại Điều 7 Nghị quyết 42 về thu giữ TSBĐ của các khoản nợ xấu theo Nghị quyết 42 và sao gửi văn bản chỉ đạo này cho NHNN, chính quyền địa phương các cấp cùng phối hợp; Tiếp tục thực hiện các đợt ra quân để ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng tín dụng đen trên phạm vi cả nước.
(vi) UBND tỉnh, thành phố tiếp tục rà soát, có các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo tới các cấp chính quyền cơ sở (phường, xã) để hướng dẫn thực hiện theo Nghị quyết 42 và phân công trách nhiệm hỗ trợ quá trình thực hiện phương án thu giữ TSBĐ; quy định cơ chế giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Đối với việc xử lý các QTDND yếu kém, UBND tỉnh, thành phố tiếp tục chỉ đạo cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ quan chức năng tăng cường hơn nữa công tác phối hợp với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố để xử lý dứt điểm các yếu kém, thu hồi các khoản sai phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
2.2 Đối với Quốc hội:
- Để đảm bảo Nghị quyết số 42 được triển khai có hiệu quả, đề nghị Quốc hội xem xét, chỉ đạo: (i) Tòa án nhân dân tối cao sớm có văn bản gửi Toà án các địa phương yêu cầu các đơn vị này ưu tiên áp dụng các thủ tục rút gọn được quy định tại Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP khi giải quyết các vụ án liên quan đến xử lý nợ xấu. Có thể tiến hành xét xử điểm 1 vụ án theo thủ tục rút gọn, trên cơ sở đó, rút kinh nghiệm để triển khai nhân rộng trong toàn hệ thống ngành Tòa án và bổ sung xây dựng cơ chế chính sách được hoàn chỉnh hơn; (ii) Tòa án nhân dân tối cao xem xét, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) sớm có văn bản chỉ đạo về việc hoàn trả các TSBĐ là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết 42; (iii) Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Cơ quan thi hành án dân sự sớm xây dựng hệ thống dữ liệu liên quan đến các vụ việc đang được thụ lý giải quyết và cho phép các TCTD được tra cứu, trích xuất các thông tin liên quan từ hệ thống dữ liệu này.
- Để ngăn chặn, đẩy lùi tín dụng đen, đề nghị Quốc hội chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thống nhất thực thi các quy định pháp luật trong đấu tranh tội phạm liên quan tín dụng đen.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin gửi Văn phòng Quốc hội./.
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chủ tịch Quốc hội; - Hội đồng dân tộc; - Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; - Đ/c Thủ tướng và các đ/c Phó Thủ tướng Chính phủ; - Đ/c Tổng Thư ký Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội: HC (5b), PVHĐGS; - Văn phòng Chính phủ (Vụ QHĐP); - Ban Lãnh đạo NHNN; - CQTTGSNH; Các Vụ: CSTT, TDCNKT, QLNH, PC, TT; - Lưu: VP, VP1 (2b). |
THỐNG ĐỐC (Đã ký) |