Skip to Main Content
Lỗi

State bank of vietnam portal

the state bank of viet nam

|
  • News
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Statistics
    • Balance of International Payment
    • Total Liquidity
      • Total Liquidity & Deposits with Credit Institutions
      • Cash in Total liquidity
    • Settlements
      • National Payment System Transactions
      • Domestic Transactions by Means of Payment
      • Trasactions via ATM.POS/EFTPOS/EDC
      • Number of Bank Cards
      • Deposits in Indivisudual Payment Accounts
      • List of Non-Bank Payment Service Suppliers
    • Credit to the Economy
    • Performance of Credit Institutions
      • Key Statistical RatiosKey Statistical Ratios
      • Ratio of loan outstanding over total deposits
      • Ratio of NPLs over Total Loan Outstanding
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
Trang chủ
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
  • Fintech - Nghiên cứu trao đổi
  • Chuyên đề khác

Chuyển đổi tăng trưởng kinh tế theo hướng cân bằng và bền vững

01/01/2025 21:09:00
0:00
/
0:00
Giọng Nam
  • Giọng Nam
  • Giọng Nữ

Tăng trưởng kinh tế toàn cầu hiện thấp hơn so với thời kỳ trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và đang gây ra các vấn đề về môi trường cũng như bất bình đẳng. Thế giới cần chuyển đổi khỏi những mô hình tăng trưởng GDP hiện tại để hướng tới những mô hình ưu tiên sự đổi mới, bao trùm, bền vững và khả năng phục hồi.

Trong bối cảnh đó, Hội đồng Tương lai toàn cầu về tăng trưởng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đã dành hai năm qua để nghiên cứu và đề xuất cách tạo ra sự cân bằng tốt hơn giữa chất lượng và số lượng. Theo đó, tăng trưởng cần dựa trên bốn nền tảng chính: đổi mới sáng tạo, tính bao trùm, tính bền vững và khả năng phục hồi.

Tăng trưởng là cần thiết, nhưng mô hình tăng trưởng cũ không còn là lựa chọn

Nếu không có tăng trưởng kinh tế, chúng ta không thể đáp ứng nhu cầu của phần lớn thế giới hay đối mặt với những thách thức của thế kỷ 21. Số lượng người sống dưới mức nghèo khổ sẽ tiếp tục như tỷ lệ của những năm 1990, và số tiền từ 100 nghìn tỷ đến 300 nghìn tỷ USD cần thiết để tài trợ cho quá trình chuyển đổi xanh sẽ không thể được huy động.

Tuy nhiên, chính nhu cầu đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh và giảm nghèo là lý do tại sao các mô hình tăng trưởng kinh tế trong quá khứ cần thay đổi. Trong thời gian dài, mô hình tăng trưởng mà chúng ta đã áp dụng gây tổn hại môi trường và làm trầm trọng thêm bất bình đẳng, khiến nó trở nên không bền vững về mặt môi trường, chính trị và xã hội.

Chúng ta cần một kỷ nguyên tăng trưởng mới, dựa trên đổi mới sáng tạo, tính bao trùm, bền vững và khả năng phục hồi. Việc chuyển sang tăng trưởng chất lượng hơn là vấn đề cấp thiết và câu hỏi đặt ra không phải là "khi nào" mà là "làm thế nào".

Đẩy nhanh tách biệt tăng trưởng khỏi áp lực môi trường và sinh thái

Thế giới đang trên đà phá vỡ một trong những mục tiêu chính của Thỏa thuận Paris lần đầu tiên vào năm 2024 – đó là giữ mức tăng nhiệt độ dưới 1,5°C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Điều này cho thấy tính cấp bách của hành động khí hậu hơn bao giờ hết.

Sự phát triển nhanh chóng của quá trình chuyển đổi năng lượng đang giúp tách tăng trưởng GDP khỏi phát thải carbon. Các nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng 50 quốc gia đã thành công trong việc tách phát thải khỏi tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, con số này chỉ chiếm khoảng 1/4, và hầu hết các quốc gia này đều thuộc nhóm có thu nhập cao. Hơn nữa, để thực sự làm được điều này, cần giải quyết một loạt áp lực sinh thái rộng hơn ngoài phát thải carbon.

Con đường phía trước không chỉ là nhân rộng thành công của 50 quốc gia đã phá vỡ mối liên kết giữa tăng trưởng kinh tế và phát thải, mà còn cần sự chia sẻ công nghệ, tăng cường tài trợ và thúc đẩy mở rộng các giải pháp.

Các nền kinh tế phát triển và mới nổi cần tăng cường hợp tác ngay lập tức trong việc giảm phát thải. Điều này có thể tạo ra sự hợp tác toàn cầu và một kỷ nguyên tăng trưởng xanh tốt đẹp – một kỷ nguyên mở ra sự đổi mới, đầu tư, việc làm và những lợi ích môi trường.

Đưa các quốc gia bị tụt hậu quay trở lại thang tăng trưởng

Nhiều quốc gia có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương, đặc biệt là ở châu Phi, đang mắc kẹt trong một thập kỷ kinh tế đình trệ. Gánh nặng nợ nần và khả năng tiếp cận tài chính hạn chế đang đẩy các nước này ngày càng tụt hậu so với các nước phát triển.

Điều này không phù hợp với nhu cầu về tăng trưởng kinh tế mang tính đổi mới, bao trùm, bền vững và khả năng phục hồi. Với dân số tăng vọt ở châu Phi – được Liên Hợp Quốc dự đoán sẽ chiếm hơn ¼ tổng dân số toàn cầu vào năm 2050, trong đó bao gồm phần lớn trẻ em trên thế giới – lục địa này có tiềm năng lớn và sẽ có tác động không cân xứng đến câu chuyện tăng trưởng toàn cầu. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực dễ bị tổn thương và bất định lớn nhất.

Xây dựng các kỹ năng mới về công nghệ xanh và kỹ thuật số sẽ cải thiện nền kinh tế, nâng cao mức sống và thúc đẩy đổi mới, mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, để mở ra kỷ nguyên tăng trưởng mới này, cần có sự tái hình dung triệt để về các công cụ chính sách và nguồn tài chính mới.

Ngoài ra, cần có các phân tích có mục tiêu và phù hợp với bối cảnh để xác định và hiểu rõ hơn các yếu tố hiện đang cản trở tăng trưởng, như thiếu các mạng lưới an sinh xã hội đầy đủ, gánh nặng nợ cao, cơ sở hạ tầng không đủ và bất ổn chính trị. Đây là chìa khóa để mở khóa tăng trưởng kinh tế được chia sẻ rộng rãi và công bằng hơn trên toàn thế giới.

AI có thể thúc đẩy năng suất, nhưng cần một cách tiếp cận chính sách toàn diện

Trí tuệ nhân tạo (AI) có khả năng biến đổi năng suất và tái định hình nền kinh tế, nhưng tác động tiềm năng của nó vẫn còn chưa chắc chắn và chưa được đảm bảo.

Cơ hội và rủi ro liên quan đến AI rất lớn, và phần lớn tập trung ở các nền kinh tế tiên tiến. Nhiều công việc có thể bị đe dọa bởi công nghệ đang phát triển nhanh chóng này, nhưng đồng thời, tiềm năng tăng năng suất và sự xuất hiện của các vai trò mới liên quan đến AI hứa hẹn mang lại lợi ích đáng kể.

Tuy nhiên, AI có thể không mang lại hiệu quả tương tự ở các nước đang phát triển, do công nghệ ít phổ biến hơn và động lực để tự động hóa công việc tại các quốc gia này bị hạn chế bởi mức lương thấp. Điều này có thể làm gia tăng khoảng cách giữa các quốc gia giàu và nghèo. Một khung quản trị tốt hơn rất cần thiết để quản lý thực trạng này và đảm bảo rằng những lợi ích mà AI mang lại được phân bổ rộng rãi nhất có thể.

Đồng thời, hiện có 2,9 tỷ người trên thế giới vẫn chưa được tiếp cận internet, và khoảng 96% trong số họ sống ở các nước đang phát triển. Khoảng cách kết nối số này không chỉ lớn mà còn ngày càng mở rộng, điều này đe dọa cản trở tiến trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững.

IMF ước tính cần 418 tỷ USD để đạt được phủ sóng băng thông rộng toàn cầu. Nếu không huy động được số tiền này để phát triển hạ tầng số ở những nơi cần thiết nhất, AI có nguy cơ làm trầm trọng thêm các bất bình đẳng hiện có.

Một cách tiếp cận chính sách toàn diện là cần thiết để tận dụng hết lợi ích của AI và mở rộng lợi ích cho tất cả mọi người. Đầu tư chiến lược vào việc thúc đẩy phổ biến và áp dụng AI trên toàn cầu sẽ đóng vai trò then chốt.

Tìm cách cung cấp tài chính và công nghệ cho các nước đang phát triển

Để tham gia vào tăng trưởng xanh, các quốc gia cần có khả năng chi trả và khả năng tiếp cận. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chỉ chi tiêu bằng 1/7 số tiền cần thiết cho năng lượng sạch để có thể đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Việc nâng mức chi tiêu 150 tỷ USD của các quốc gia này trong năm 2020 lên hơn 1 nghìn tỷ USD mỗi năm đòi hỏi khả năng tiếp cận tài chính được cải thiện đáng kể. Tài chính hỗn hợp – kết hợp công và tư – cần được thúc đẩy nhiều hơn để giảm chi phí và rủi ro cho các nhà đầu tư.

Các mô hình tài chính đổi mới khác cũng rất cần thiết, như các khoản vay và trái phiếu liên kết với tính bền vững, cung cấp lãi suất thấp hơn nếu các quốc gia đạt được tiến bộ trong các mục tiêu xanh. Các tổ chức tài chính phát triển phải đóng vai trò chính trong việc chuyển dòng tiền và khắc phục các thất bại thị trường.

Thương mại và chia sẻ công nghệ cũng sẽ rất quan trọng. Đối với các quốc gia có thu nhập thấp nhất, việc thực hiện các điều này phụ thuộc vào sự hợp tác quốc tế. Như UNCTAD đã chỉ ra, các khuyến nghị bao gồm việc tạo ra các quy tắc linh hoạt hơn cho các nước đang phát triển liên quan đến thương mại quốc tế và sở hữu trí tuệ để thúc đẩy tăng trưởng trong các ngành công nghệ xanh.

Với việc các thị trường mới nổi dự kiến chiếm 88% tăng trưởng nhu cầu điện toàn cầu từ năm 2019 đến 2040, việc đảm bảo tăng trưởng xanh là cách duy nhất để bảo đảm thành công của các hành động khí hậu toàn cầu.

Đầu tư mạnh mẽ vào nguồn lực con người

Thị trường lao động đang thay đổi nhanh chóng. Nhiều vị trí công việc trong tương lai sẽ yêu cầu các kỹ năng mà 25 năm trước còn được coi là hiếm, nhưng ngày nay đã trở thành tiêu chuẩn. Những kỹ năng này bao gồm kỹ năng xanh và kỹ năng số, và trẻ em cần bắt đầu học chúng từ sớm để chuẩn bị cho thị trường lao động.

Các chính phủ cần đưa 250 triệu trẻ em không được đi học vào năm 2023 trở lại trường học, đảm bảo rằng mọi người đều có cơ hội để học hỏi những kỹ năng của tương lai. Đồng thời, cần đầu tư nhiều hơn vào vốn con người ở mọi lứa tuổi và khuyến khích các công ty đầu tư vào các sáng kiến đào tạo lại kỹ năng.

Khi công việc thay đổi, lực lượng lao động cũng phải thay đổi. Giáo dục không phải là ưu tiên duy nhất để phát triển một đội ngũ nhân tài vững mạnh và lực lượng lao động sẵn sàng cho tương lai.

Tỷ lệ sinh giảm và dân số già hóa có nghĩa là cần đưa thêm phụ nữ, các cộng đồng yếu thế và người thất nghiệp vào lực lượng lao động, đồng thời đảm bảo rằng thanh niên được trang bị kỹ năng ngay sau khi rời ghế nhà trường. Việc tăng cường tính bao trùm sẽ mang lại sự đa dạng kỹ năng lớn hơn trong lực lượng lao động, qua đó thúc đẩy năng suất.

Ngoài ra, cần phải thừa nhận vai trò quan trọng của nền kinh tế chăm sóc trong thúc đẩy tăng trưởng. Công việc chăm sóc không được trả lương – phần lớn do phụ nữ thực hiện – sẽ chiếm khoảng 9% GDP toàn cầu nếu có mức lương, nhưng giá trị xã hội và kinh tế của nền kinh tế chăm sóc hiện vẫn phần lớn bị bỏ qua.

Chuẩn bị cho sự thay đổi dân số

Dân số tại các nền kinh tế phát triển đang già hóa. Nhật Bản là một ví dụ nổi bật, với gần 1/3 dân số trên 65 tuổi và tình trạng thiếu hụt lao động đã bắt đầu xuất hiện. Điều này không chỉ làm xói mòn cơ sở thuế quốc gia mà còn tăng nhu cầu thu thuế để tài trợ cho lương hưu, chăm sóc sức khỏe và chi phí xã hội.

Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi đang chứng kiến sự bùng nổ dân số. Nếu những người trẻ tuổi ở các quốc gia này di cư đến các nước giàu, điều này có thể xem như một giải pháp đôi bên cùng có lợi. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách ở các nước phương Tây cần chuẩn bị để quản lý hậu quả xã hội và chính trị của việc nhập cư, cùng với mối đe dọa từ tự động hóa có thể làm giảm số lượng việc làm trong lĩnh vực dịch vụ – đang sử dụng khoảng 2/3 số lao động di cư (theo ILO).

Những thay đổi trong động lực thị trường lao động này cần được quản lý một cách cẩn trọng và chủ động, cả về nhu cầu giáo dục của lực lượng lao động mới nhập cư và nhu cầu phúc lợi của những người có thể bị thay thế hoặc bước vào tuổi nghỉ hưu. Làm tốt điều này sẽ giúp trao quyền cho mọi người và mở ra con đường để thúc đẩy tăng trưởng mà chúng ta mong muốn.

Chống lại sự phân mảnh địa kinh tế

Theo IMF, có tới 7% GDP toàn cầu đang gặp rủi ro nếu thế giới bị phân mảnh thành các khối kinh tế đối địch. Không chỉ vậy, sự gia tăng thù địch sẽ cản trở tiến bộ trong các vấn đề chung toàn cầu như biến đổi khí hậu, xóa đói giảm nghèo và giải quyết nợ.

Các diễn biến chính trị gần đây làm gia tăng nguy cơ phân mảnh địa kinh tế, khiến việc đẩy lùi xu hướng này trở nên cấp thiết.

Tìm cách hợp tác trong một thế giới đa cực sẽ là chìa khóa để tạo ra tăng trưởng kinh tế tốt, đặc biệt trong một kỷ nguyên mà bất kỳ sự chênh lệch nào trong phát triển AI hay nỗ lực khử carbon có thể dẫn đến sự phân hóa lớn hơn.

Những nỗ lực phối hợp và nhất quán trong các lĩnh vực như thương mại, công nghệ, đầu tư nước ngoài và năng lượng xanh là cần thiết để thúc đẩy hội tụ kinh tế toàn cầu.

Sự ủng hộ của người dân là thiết yếu cho bất kỳ chiến lược tăng trưởng nào

Tám điểm trên tạo thành những nền tảng chính để xây dựng một loại hình tăng trưởng kinh tế mang lại sự cân bằng tốt hơn giữa chất lượng và số lượng. Tuy nhiên, cách mà mỗi quốc gia triển khai dựa trên những nền tảng này sẽ khác nhau.

Không có một cách tiếp cận chung cho tất cả, nhưng tất cả các quốc gia cần có một điểm chung để thành công – không quốc gia nào có thể xây dựng một cấu trúc bền vững trên tám nền tảng này nếu không thiết lập được sự ủng hộ rộng rãi từ người dân đối với những đánh đổi mà các chiến lược tăng trưởng mới này sẽ mang lại.

Để làm được điều này, chính phủ cần thực hiện các hành động nhằm khôi phục niềm tin vào các tổ chức công. Một trong những biện pháp đó là tạo điều kiện để người dân tham gia trong quá trình hoạch định chính sách – OECD mô tả đây là “yếu tố quan trọng để xây dựng niềm tin”, với khoảng 69% những người cảm thấy họ có tiếng nói trong các hành động chính sách cho biết tin tưởng vào chính phủ.

Cách tiếp cận này có thể giúp đảm bảo rằng những lợi ích của tăng trưởng mà chúng ta mong muốn – đổi mới, bao trùm, bền vững và khả năng phục hồi – được chia sẻ rộng rãi. Ngược lại, sự gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và cơ hội sẽ làm gia tăng trở ngại đối với tính bao trùm. Việc giảm bất bình đẳng sẽ có tác động ngược lại.

MN (theo WEF)

  • aA
  • Categories:
  • Fintech - Nghiên cứu trao đổi
  • Chuyên đề khác
OTHER NEWS
Triển vọng Fintech toàn cầu: Từ tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng bền vững
3/7/26
Chuyển đổi số ở các ngân hàng thương mại Việt Nam: Thành tựu, thách thức và một số kiến nghị hoàn thiện
2/7/25
Fed đề xuất nới lỏng quy định vốn: Động thái hỗ trợ thị trường trái phiếu Kho bạc
2/6/27
Tăng cường ổn định tài chính nâng cao khả năng chống chịu trong bối cảnh kinh tế hiện nay
3/6/25
Lộ trình giảm lãi suất trong năm 2025 được mở ra từ Fed
2/6/25
ECB cảnh báo nguy cơ suy giảm niềm tin ngân hàng từ tài sản mã hóa
5/6/25
ECB điều chỉnh chính sách trong bối cảnh lạm phát hạ nhiệt
6/6/25
Thụy Sĩ: Chỉ số giá tiêu dùng vào vùng giảm phát, yếu tố thúc đẩy nới lỏng tiền tệ
5/6/25
Hạn hán - Thách thức mới cho ổn định tài chính Khu vực đồng Euro
2/6/25
Liệu ECB có cắt giảm lãi suất vào tháng 6/2025?
2/6/25
Showing 1 to 10 of 1573
  • 1
  • 2
  • 3
  • 158
About SBV
  • History
  • Major Responsibilities
  • Management Board
  • Former Governors
CPI
Reserve requirement
Interest Rate
Money Market Operations
  • Notification of New Offering off the State Bank Bills
  • Invitation for Gold Auctions
  • Open Market Operations
  • Auctions for State Treasury bills
System of Credit Institutions
  • Banks
    • Commercial Banks
      • State-owned Commercial Banks
      • Joibt-stock Commercial Banks
      • Wholly Foreign Owned Banks
      • Joint-venture Banks
    • Policy Banks
    • Cooperative Banks
  • Non-Banks Credit Institution
    • Finance Companies
    • Leasing Companies
    • Other non-bank credit Institutions
  • Micro finance Institutions
  • People's Credit Fund
  • Foreign Bank Branches
  • Representative Offices
Search Bar
TIN VIDEO
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Dấu ấn ngành Ngân hàng trong Triển lãm thành tựu đất nước 80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TIN ẢNH
Album
Album
TIN ẢNH
Album
Album
Calendar Icon LỊCH LÀM VIỆC CỦA BAN LÃNH ĐẠO Microphone Icon CÁC BÀI PHÁT BIỂU Chart Icon CPI Percentage Icon LÃI SUẤT Money Icon DỰ TRỮ BẮT BUỘC Graduation Icon GIÁO DỤC TÀI CHÍNH Newspaper Icon THÔNG CÁO BÁO CHÍ ẤN PHẨM PHÁT HÀNH
Ngân hàng
ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2025-2030 Chuyển đổi số
Danh Bạ Liên Hệ Phản Ánh Kiến Nghị Đường Dây Nóng
© state bank of vietnam portal
Address: 49 Ly Thai To - Hoan Kiem - Hanoi
Webmaster: (84 - 243) 266.9435
Email: thuongtrucweb@sbv.gov.vn rss
NCSC Certification
State Bank hotline: (84 - 243) 936.6306
Information security: phone number: (+84)84.859.5983, email: antt@sbv.gov.vn
IPv6 Ready
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Digital Bankingtimes

logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
Cổng thông tin điện tử NHNN
Thời báo Ngân Hàng
Tạp chí Ngân hàng

Digital Bankingtimes

Digital Banking Times Logos