Skip to Main Content
Lỗi

Cổng Thông Tin Điện Tử

Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam

|
  • Tin tức - sự kiện
  • Chính sách tiền tệ
    • Định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng trong năm
    • Thẩm quyền quyết định CSTT quốc gia và các công cụ thực hiện
  • Thanh toán & ngân quỹ
    • Nhiệm vụ của NHNN trong hoạt động thanh toán
    • Các hệ thống thanh toán trong nền kinh tế
      • Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
      • Các hệ thống thanh toán khác
    • Giám sát hệ thống thanh toán
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Hệ thống mã tổ chức phát hành thẻ
    • Biểu phí dịch vụ thanh toán qua NHNN
    • Hoạt động ngân quỹ
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Thanh tra giám sát
    • Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
    • Kết luận thanh tra
    • Các chương trình, đề án trọng tâm
  • Phát hành tiền
    • Đồng tiền Việt Nam
    • Tiền thật, tiền giả
    • Những hành vi bị nghiệm cấm và một số quy định về xử phạt liên quan đến phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam
  • QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
    VÀ KINH DOANH VÀNG
  • Dữ liệu thống kê
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM,POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chỉ tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng theo quý
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Kết quả điều tra
      • Điều tra trực tuyến
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • Tin tức sự kiện
  • Thông cáo báo chí
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Dữ liệu Thống kê
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Văn bản quy phạm pháp luật
  • Chính sách tiền tệ
    • Định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng trong năm
    • Thẩm quyền quyết định CSTT quốc gia và các công cụ thực hiện
  • Thanh toán & ngân quỹ
    • Nhiệm vụ của NHNN trong hoạt động thanh toán
    • Các hệ thống thanh toán trong nền kinh tế
      • Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
      • Các hệ thống thanh toán khác
    • Giám sát hệ thống thanh toán
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Hệ thống mã tổ chức phát hành thẻ
    • Biểu phí dịch vụ thanh toán qua NHNN
    • Hoạt động ngân quỹ
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Thanh tra giám sát
    • Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
    • Kết luận thanh tra
    • Các chương trình, đề án trọng tâm
  • Phát hành tiền
    • Đồng tiền Việt Nam
    • Tiền thật, tiền giả
    • Những hành vi bị nghiệm cấm và một số quy định về xử phạt liên quan đến phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • Giới thiệu NHNN
    • Sơ lược quá trình thành lập và phát triển
    • Chức năng nhiệm vụ
    • Ban lãnh đạo đương nhiệm
    • Lãnh đạo NHNN qua các thời kỳ
Trang chủ
  • Tin tức sự kiện
  • Thông cáo báo chí
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Dữ liệu Thống kê
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Văn bản quy phạm pháp luật
  • Chính sách tiền tệ
    • Định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng trong năm
    • Thẩm quyền quyết định CSTT quốc gia và các công cụ thực hiện
  • Thanh toán & ngân quỹ
    • Nhiệm vụ của NHNN trong hoạt động thanh toán
    • Các hệ thống thanh toán trong nền kinh tế
      • Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
      • Các hệ thống thanh toán khác
    • Giám sát hệ thống thanh toán
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Hệ thống mã tổ chức phát hành thẻ
    • Biểu phí dịch vụ thanh toán qua NHNN
    • Hoạt động ngân quỹ
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Thanh tra giám sát
    • Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
    • Kết luận thanh tra
    • Các chương trình, đề án trọng tâm
  • Phát hành tiền
    • Đồng tiền Việt Nam
    • Tiền thật, tiền giả
    • Những hành vi bị nghiệm cấm và một số quy định về xử phạt liên quan đến phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • Giới thiệu NHNN
    • Sơ lược quá trình thành lập và phát triển
    • Chức năng nhiệm vụ
    • Ban lãnh đạo đương nhiệm
    • Lãnh đạo NHNN qua các thời kỳ
  • Thống đốc NHNN trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội

Tổng hợp nội dung trả lời chất vấn tại hội trường (chiều 8/6/2022 và sáng 9/6/2022)

26/07/2022 22:39:00
0:00
/
0:00
Giọng Nam
  • Giọng Nam
  • Giọng Nữ

TỔNG HỢP NỘI DUNG TRẢ LỜI CHẤT VẤN CỦA THỐNG ĐỐC NHNN

(Tại Phiên chất vấn Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XV)

I. Chính sách tiền tệ

1. Nghị quyết số 43 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; Gói hỗ trợ lãi suất 2% (ĐBQH Nguyễn Văn Thân – Thái Bình, ĐBQH Leo Thị Lịch – Bắc Giang, ĐBQH Trần Văn Tiến – Vĩnh Phúc)

1.1. Kết quả thực hiện

Ngay sau khi có Nghị quyết 43 của Quốc hội, Chính phủ đã có Nghị quyết 11. Trong phần này Ngân hàng Nhà nước có 3 nhóm nội dung thực hiện triển khai.

Nhóm vấn đề đầu tiên thực hiện theo quan điểm và mục tiêu của Nghị quyết 43 đặt ra là phải kiên định với ổn định vĩ mô, yêu cầu chính sách tiền tệ phải linh hoạt và phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để đạt được mục tiêu.

Nội dung thứ hai là Ngân hàng Nhà nước phải ban hành 2 Nghị định. Một Nghị định về tín dụng ưu đãi đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thành, đã trình ban hành và bây giờ đang chờ các Thông tư hướng dẫn đối với đối tượng của vùng dược liệu cũng như đối tượng của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, còn Ngân hàng Chính sách xã hội đã sẵn sàng quy trình, thủ tục cho vay khi có thông tư của các bộ, ngành liên quan.

Đối với Nghị định hỗ trợ lãi suất 2%, Ngân hàng Nhà nước đã chủ trì, phối hợp với các bộ, các ngành để trình Chính phủ ban hành vào ngày 20/5. Song song với đó, Ngân hàng Nhà nước đã dự thảo, ban hành Thông tư số 03 ngay trong ngày ban hành Nghị định và tổ chức triển khai Hội nghị trực tuyến đối với toàn hệ thống trên toàn quốc và các ngân hàng thương mại để chỉ đạo các ngân hàng phải tích cực tham gia với tinh thần trách nhiệm. Sau đó, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản hướng dẫn hạch toán đối với những khoản hỗ trợ này để đảm bảo được rõ ràng, minh bạch, công khai đối với những khoản tiền hỗ trợ từ ngân sách. Đối với những khoản đã ký thỏa thuận vay với khách hàng và giải ngân từ ngày 1/1/2022, nếu thuộc các đối tượng của Nghị định 31 thì vẫn được hỗ trợ lãi suất và lãi suất đó sẽ đến hạn trong thời gian hiệu lực của Nghị định 31 cho đến ngày 31/12/2023. Tuy rằng tháng 5 mới ban hành Nghị định nhưng việc cho các doanh nghiệp vay để phục hồi kinh tế thì đã được thực hiện từ ngày 1/1/2022.

Có thể nói rằng điều hành lãi suất và giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân là một nhiệm vụ trọng tâm và Ngân hàng Nhà nước rất quan tâm đối với công tác điều hành này. Trong những năm qua, bằng rất nhiều các giải pháp điều tiết tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo hệ thống và có các giải pháp để làm cho mặt bằng lãi suất giảm mạnh. Theo đó, những năm trước lãi suất rất cao nhưng đến thời điểm năm 2020-2021 lãi suất đã được giảm. Tuy nhiên trong 5 tháng đầu năm 2022, có thể thấy được điều hành chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu những áp lực khá lớn. Bên ngoài, lạm phát đang xu hướng tăng trên toàn cầu và Ngân hàng Trung ương các nước đều có xu hướng tăng lãi suất. Năm 2021 có khoảng trên 100 lượt tăng lãi suất và 5 tháng đầu năm 2022 có khoảng 135 lượt tăng lãi suất, cho thấy các nước đã tăng lãi suất lên rất nhiều. Trong nước, lãi suất phụ thuộc vào cung - cầu vốn. Có thể nói từ đầu năm đến nay, chỉ trong 5 tháng khi doanh nghiệp và người dân hoạt động sản xuất, kinh doanh quay trở lại, tín dụng đã tăng lên đến 8%. Đây là một mức khá cao so với mục tiêu định hướng của năm 2022 là 14%, cho thấy dù áp lực lớn nhưng Ngân hàng Nhà nước đã điều tiết và đã cơ bản ổn định được mặt bằng lãi suất và lãi suất này chỉ tăng có 0,09% so với cuối năm 2021. Đây là một mức tăng thấp so với các nước trên thế giới, Ngân hàng Nhà nước vẫn đang cố gắng điều hành làm sao có thể tránh những biến động lớn về lãi suất để làm cho doanh nghiệp và người dân không khó khăn. Về tỷ giá, rất nhiều đồng tiền của các nước trên thế giới tỷ lệ mất giá vào khoảng 5% - 6%, nhưng tỷ giá của Việt Nam cũng đang ở mức khá phù hợp và không có biến động lớn để ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân. Ngân hàng Nhà nước đang kiểm soát tỷ giá liên ngân hàng vào khoảng 1,7 đến 1,8%.

Trong Nghị quyết 43, quan điểm và mục tiêu của Nghị quyết 43 là thực hiện các chương trình phục hồi kinh tế nhưng vẫn phải kiên định đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII và các Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm cũng như là hằng năm. Do đó, trong điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước cũng cần điều hành trên cơ sở tổng thể tất cả các công cụ, giải pháp điều hành khác để kiên định được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Trong điều hành lãi suất, nếu như có điều kiện Ngân hàng Nhà nước luôn luôn chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải tiết kiệm các chi phí trong hoạt động để cố gắng giảm lãi suất và hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân.

Trong thời gian vừa qua, S&P đã nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam lên mức BB+, chỉ còn một mức nữa là thuộc mức khuyến nghị cho các nhà đầu tư đầu tư vào Việt Nam. Đây là một cố gắng rất lớn trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ trong thời gian vừa qua.

1.2. Xác định đối tượng được hỗ trợ

Trong quá trình xây dựng Nghị định 31, Ngân hàng Nhà nước đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, họp hành, bàn thảo rất nhiều và Chính phủ cũng họp rất nhiều cuộc, để làm sao thiết kế ra các quy định đảm bảo được việc triển khai thuận lợi nhất và hạn chế những khó khăn, vướng mắc. Tại Nghị quyết 11 của Chính phủ đã quy định và xác định rất rõ 2 nhóm đối tượng được hưởng gói hỗ trợ.

Thứ nhất, đó là những nhu cầu vay vốn thuộc một số ngành kinh tế đã được quy định tại Quyết định số 27 của Thủ tướng Chính phủ về phân ngành kinh tế. Từ trước đến nay, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và người dân đều có sự phân ngành kinh tế theo chuẩn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ở đây là Tổng cục Thống kê.

Thứ hai là nhu cầu cho vay đối với việc nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và cải tạo chung cư cũ. Việc này sẽ do Bộ Xây dựng phối hợp với các địa phương để rà soát và công bố danh mục. Để thiết kế một cách công bằng, công khai, còn có sự tham gia của các bộ, ngành liên quan trong các khâu thực hiện dự toán cũng như là quyết toán. Đặc biệt, trong Nghị định này cũng có quy định sự tham gia của Kiểm toán Nhà nước đối với các khoản cho vay trước khi Bộ Tài chính thực hiện quyết toán khoản vay này.

2. Áp lực lạm phát (ĐBQH Huỳnh Thị Phúc – Bà Rịa – Vũng Tàu)

Hiện nay áp lực lạm phát trên thế giới đang rất cao. Còn ở trong nước, mặc dù lạm phát 5 tháng đầu năm tăng 2,25% nhưng chủ yếu do tác động của yếu tố giá, chưa tính đến những tác động của các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế, tín dụng đến nay đã tăng khá cao. Như vậy, trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ phải phối kết hợp các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, hiệu quả và theo dõi sát những diễn biến kinh tế vĩ mô cũng như những diễn biến của các gói hỗ trợ để đưa ra những giải pháp điều hành phù hợp và kết hợp với chính sách tài khóa, các chính sách vĩ mô khác, trong đó chính sách kiểm soát giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý rất quan trọng, đó là giá xăng dầu, giá dịch vụ y tế, giá dịch vụ giáo dục, v.v. đây là những mặt hàng và dịch vụ có tỷ trọng tương đối lớn trong rổ hàng hóa tính CPI.

3. Khó khăn trong việc cho vay của các tổ chức tài chính vi mô (ĐBQH Trần Thị Diệu Thúy – TP Hồ Chí Minh)

Hệ thống các tổ chức tín dụng cũng có các ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân và 4 quỹ tài chính vi mô, có số lượng phòng giao dịch trên 24 tỉnh, thành phố. Khó khăn của các quỹ tài chính vi mô này là khó huy động được nguồn lực để có thể cho vay, khó khăn đã được tổng hợp để đánh giá, rà soát trong quá trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung. Đối với Thông tư 03, quỹ tài chính vi mô không được thực hiện các dịch vụ thanh toán như các ngân hàng khác nên hoạt động cũng có những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cho vay, thu nợ. Điểm này Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp thu và sẽ nghiên cứu khi xây dựng các văn bản sửa đổi.

4. Điều hành tín dụng; hạn mức tín dụng (ĐBQH Trịnh Xuân An – Đồng Nai; ĐBQH Hà Sỹ Đồng – Quảng Trị)

Đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là vốn đầu tư dựa rất lớn vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Hiện nay tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam ở mức 124%, thuộc nhóm cao theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới. Khi nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tín dụng và hệ thống ngân hàng thì mỗi khi có các cú sốc như COVID hoặc là biến động của tình hình kinh tế thế giới dẫn đến doanh nghiệp và người dân gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hệ thống ngân hàng sẽ lập tức bị ảnh hưởng. Hệ thống ngân hàng mà mất khả năng chi trả, v.v. thì sẽ hệ lụy đến cả nền kinh tế. Chính vì vậy, đặt ra vấn đề phải kiểm soát tăng trưởng tín dụng, và trên thực tế Ngân hàng Nhà nước áp dụng biện pháp này từ những năm 2011 và thấy đây là một biện pháp rất hiệu quả trong tổ chức điều hành, chính vì vậy mới đưa thị trường tiền tệ tín dụng ổn định trở lại. Trước đây trong thời gian không có kiểm soát về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, các ngân hàng, các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng rất cao, có nhiều năm tăng trưởng tín dụng là trên 30%/năm, cá biệt có những năm tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống lên đến 53,8%, như vậy sẽ tạo ra cuộc đua lãi suất để huy động được nguồn tiền để cho vay, v.v.. Điều hành tín dụng theo hạn mức tín dụng và chỉ tiêu tín dụng là một giải pháp khá hiệu quả trong thời gian vừa qua và hiện nay đang áp dụng, bởi vì hiện nay hệ thống ngân hàng vẫn đang trong quá trình tái cơ cấu và dần tiến tới chuẩn mực quốc tế.

Trong điều kiện thị trường vốn đang trong quá trình phát triển non trẻ, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì một hội nghị về thị trường vốn, qua đó cũng đã chỉ đạo các bộ, các ngành nghiên cứu để phát triển thị trường vốn. Khi phát triển thị trường vốn, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn vay trung, dài hạn từ những phân khúc thị trường này và chỉ vay vốn ngắn hạn phục vụ cho vốn lưu động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh từ hệ thống ngân hàng, khi đó rõ ràng áp lực đối với việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước sẽ bớt đi.

Về cách thức, trên cơ sở chỉ tiêu lạm phát cũng như GDP của Quốc hội đề ra đầu năm, Ngân hàng Nhà nước sẽ đưa ra một chỉ tiêu định hướng cho cả năm và chỉ tiêu này có thể sẽ được điều hành phù hợp với tình hình thực tiễn, bởi vì chính sách tiền tệ cũng là ngắn hạn và nền kinh tế cũng sẽ chịu tác động bởi rất nhiều yếu tố trong và ngoài nước cũng như khách quan.

Về phân bổ cho các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có những nguyên tắc chung, trên nền tảng phân loại các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng nào có tình hình lành mạnh, quản trị tốt hơn thì được tăng trưởng tín dụng cao hơn.

5. Tiếp cận vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ (ĐBQH Nguyễn Văn Thân – Thái Bình, ĐBQH Hoàng Văn Cường – TP Hà Nội)

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là khối doanh nghiệp chiếm đến 97% tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đây là khối doanh nghiệp có nhiều điều kiện bị hạn chế hơn so với những loại hình doanh nghiệp khác. Ví dụ như tình hình tài chính bị hạn chế, khả năng quản trị hay thương hiệu của các hàng hóa do các doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất trên thị trường chưa được cao. Do đó, các tổ chức tín dụng sẽ phải đánh giá trên cơ sở xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp nhỏ và vừa để đưa ra những mức lãi suất cao hơn so với những doanh nghiệp có độ tín nhiệm cao hơn. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, nhất là thời gian dịch bệnh 2 năm 2020 và 2021, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện giảm lãi suất cho doanh nghiệp, người dân. Trong 2 năm tổng số tiền lãi ngành NH đã giảm khoảng 47-48.000 tỷ đồng cho các khách hàng, đây cũng là những cố gắng chia sẻ của hệ thống ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những điểm hạn chế như vậy, cho nên có nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện để vay vốn các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng phải thực hiện theo nguyên tắc là khi cho vay khách hàng phải đảm bảo có khả năng trả nợ thì mới cho vay, vì tiền cho vay là tiền huy động của người dân nên phải đảm bảo khả năng thu hồi nợ. Trong thời gian vừa qua, nhờ có những giải pháp chính sách từ phía Nhà nước đã có một luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ cũng có một số nghị định để tháo gỡ khó khăn và có giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với lĩnh vực tín dụng cũng có một quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay từ hệ thống các tổ chức tín dụng. Ở các địa phương đến nay có khoảng 29 quỹ bảo lãnh tín dụng. Trong thời gian tới, sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện đánh giá, tổng kết hoạt động của quỹ bảo lãnh này, sẽ có nhiều cơ hội hơn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận được vay vốn của hệ thống các tổ chức tín dụng. Ngành ngân hàng sẽ phối hợp với các bộ, ban ngành để có những chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Đối với các doanh nghiệp có những khoản nợ cũ và hiện nay không có tài sản đảm bảo, ngay từ khi bàn thảo và trình Quốc hội, Quốc hội cũng đã trao đổi và Ủy ban Thường vụ Quốc hội có họp một số phiên, trong đó thấy rằng đối tượng gói hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế phải là các doanh nghiệp có khả năng trả nợ và có khả năng phục hồi. Nghị định và Thông tư hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng phải cho vay đúng đối tượng và các doanh nghiệp thuộc các ngành được hỗ trợ nhưng vẫn phải đảm bảo khả năng trả nợ và có khả năng phục hồi thì mới được cho vay. Nếu trong quá trình thẩm định, đánh giá mà doanh nghiệp đó không đủ điều kiện vay thì các doanh nghiệp không tiếp cận được chương trình này.

6. P2P Lending (ĐBQH Phạm Thị Thanh Mai – TP Hà Nội)

Với sự phát triển của công nghệ cao, hoạt động P2P lending đã xuất hiện ở Mỹ và ở Anh cách đây một chục năm và lan sang các nước châu Á bao gồm Việt Nam những năm gần đây. Ở một số nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, từng thành lập hàng nghìn trang web để thực hiện cho vay. Họ xây dựng một nền tảng công nghệ để kết nối giữa người cho vay và người đi vay.

Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai, ở các nước châu Á đã xảy ra hiện tượng không tách bạch giữa tiền của người cho vay và người đi vay. Có thể người lập ra sàn công nghệ để kết nối thì lại là người đi vay hoặc lại là người cho vay nên gây mất an toàn, trật tự của xã hội. Trong thời gian vừa qua, các nước, ví dụ như Trung Quốc, đã có những biện pháp siết những hoạt động này.

Đối với Việt Nam, Chính phủ đã chỉ đạo rất quyết liệt và giao cho Ngân hàng Nhà nước chủ trì cùng với các bộ, ban ngành để nghiên cứu. Sau khi khảo sát, đánh giá ở Việt Nam cùng với các bộ, ngành và thấy có xuất hiện P2P lending, Ngân hàng Nhà nước đang dự thảo nghị định để có hành lang pháp lý, đảm bảo hoạt động này phải lành mạnh, an toàn và hiệu quả. Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước và thực tiễn Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước sẽ rút kinh nghiệm để hạn chế những rủi ro có thể phát sinh.

II. Thanh tra, giám sát Ngân hàng

1. Nghị quyết số 42 (ĐBQH Phạm Hùng Thắng – Hà Nam, ĐBQH Phạm Thị Thanh Mai – Hà Nội, ĐBQH Trần Thị Thanh Hương – An Giang, ĐBQH Quàng Thị Nguyệt – Điện Biên)

1.1. Lí do kéo dài Nghị quyết số 42

Mặc dù có những khó khăn nhưng Nghị quyết 42 là nghị quyết rất hiệu quả đối với xử lý nợ xấu. Vì nếu không được kéo dài thì việc xử lý tới đây sẽ rất khó khăn và khi nợ xấu không được xử lý thì doanh nghiệp vẫn treo nợ xấu, như vậy rất khó tiếp cận với các khoản vốn tín dụng của ngân hàng.

Nếu kéo dài sửa đổi, trong Nghị quyết 42 là những chính sách mới, có liên quan đến nhiều quy định của pháp luật, nếu sửa thì đòi hỏi thời gian đánh giá tác động. Cho nên Ngân hàng Nhà nước đề xuất với Quốc hội là xin kéo dài toàn bộ. Trong thời gian Nghị quyết gia hạn, Ngân hàng Nhà nước sẽ cùng với các bộ, các ngành rà soát, tham mưu về cách thức luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu.

1.2. Hiệu quả của việc kéo dài Nghị quyết 42

Nghị quyết 42 trên thực tế đánh giá tổng kết có những khó khăn, vướng mắc, nhưng một điều quan trọng trong Nghị quyết 42 là cho phép người cho vay thu giữ tài sản đảm bảo cũng như được bán những khoản nợ xấu và tài sản đảm bảo có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị tài sản đảm bảo. Khi tổng kết số liệu triển khai Nghị quyết 42 trong số 541.000 tỷ đồng trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực thì có tới 380.000 tỷ đồng xử lý được, trong đó thì khoảng 40% là các khoản mà khách hàng tự trả nợ. Đây là một điểm rất quan trọng, mặc dù còn những khó khăn, vướng mắc nhưng sự kéo dài của Nghị quyết 42 cũng sẽ tạo điều kiện để tiếp tục xử lý nợ xấu.

Trên thực tế đây chỉ là những khoản nợ theo phạm vi Nghị quyết 42, là những khoản vay trước ngày 15/8, sau đó cũng có những khoản vay có thể phát sinh nợ xấu. Đặc biệt là khi mà nền kinh tế chịu tác động của đại dịch COVID-19 trong năm 2020-2021 thì nhiều khoản vay đã được các tổ chức tín dụng hỗ trợ khách hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, điều này có thể dẫn đến nợ xấu gia tăng nếu như việc phục hồi sản xuất kinh doanh không giúp được nhiều cho doanh nghiệp trả nợ. Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới sẽ tích cực phối hợp với các bộ, ngành để cố gắng khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong Nghị quyết 42.

1.3. Tiến độ luật hóa

Ngay từ khi tổng kết, đánh giá Nghị quyết 42, Ngân hàng Nhà nước đã tham khảo kinh nghiệm các nước và cũng tiến hành đánh giá những quy định của pháp luật về tiền tệ, ngân hàng. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành để đánh giá những quy định của pháp luật có liên quan để xử lý nợ xấu và cũng sẽ tham mưu, đề xuất xem cách thức luật hóa như thế nào, ban hành thành luật riêng hay là quy định tại các luật, hay là quy định tại Luật Tổ chức tín dụng.

Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là một vấn đề rất khó và cũng đòi hỏi sự đồng thuận rất cao của xã hội, bởi vì chính sách cần thiết thực đối với doanh nghiệp và người dân. Trong thời gian tới, vào kỳ đầu tiên của năm sau, Ngân hàng Nhà nước sẽ luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu.

2. Số liệu nợ xấu; giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ xấu (ĐBQH Vương Thị Hương – Hà Giang, ĐBQH Lưu Văn Đức – Đăk Lăk, ĐBQH Nguyễn Danh Tú – Kiên Giang)

2.1. Số liệu nợ xấu

Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các quy định về pháp lý rất chi tiết, rất cụ thể về phân loại các nhóm nợ và khi nào thì chuyển thành nợ xấu. Đối với các tổ chức tín dụng phân loại nợ sai hoặc là báo cáo không đúng với tình trạng của khoản nợ, Ngân hàng Nhà nước qua thanh tra mà phát hiện thì sẽ xử lý. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin tín dụng CIC hoạt động trong nhiều năm nay là một công cụ rất tốt để các tổ chức tín dụng có thể kiểm tra xem khách hàng vay tại mình có những khoản nợ ở các tổ chức tín dụng khác tình trạng như thế nào và theo đó phân loại nợ cho chuẩn xác.

2.2. Giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ xấu

Theo tinh thần của Nghị quyết 42, với sự quan tâm của Quốc hội thì nợ xấu lẽ ra được đưa về dưới mức 3% vào năm 2020 nhưng trong năm 2020 và 2021 nền kinh tế chịu tác động của đại dịch COVID-19 cho nên nợ xấu của hệ thống ngân hàng gia tăng. Trước khó khăn của doanh nghiệp và người dân, nếu để nợ xấu gia tăng thì bản thân doanh nghiệp và người dân sẽ khó có thể tiếp cận được các khoản vay mới. Chính vì vậy, ngay trong tháng 3/2020, Ngân hàng Nhà nước đã có thông tư cho phép các doanh nghiệp và người dân thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ. Ngân hàng Nhà nước đã chủ động quy định ở Thông tư, đó là yêu cầu các tổ chức tín dụng đưa một lộ trình để trích lập dự phòng rủi ro đối với những khoản nợ được cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ, để khi nợ xấu phát sinh thì cũng có nguồn lực tài chính để xử lý. Bên cạnh đó, chiến lược phát triển và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng thời gian tới có hướng đến tiếp tục nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát rủi ro, trong đó có rủi ro của tín dụng. Các khâu phân định rất rõ các thẩm quyền, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân cũng như các kênh để kiểm soát lẫn nhau trong việc phòng ngừa. Đối với quy trình, thủ tục cho vay thì phải đảm bảo chặt chẽ, đảm bảo đúng điều kiện và Ngân hàng Nhà nước cũng tăng cường công tác thanh tra, giám sát để thường xuyên có cảnh báo đối với hoạt động cho vay để phòng ngừa rủi ro nợ xấu.

3. Xử lý ngân hàng mua bắt buộc (ĐBQH Leo Thị Lịch – Bắc Giang)

Xử lý tái cơ cấu một ngân hàng yếu kém trong điều kiện bình thường đã là rất khó, bởi vì đối với đặc thù của Việt Nam, nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng của hệ thống ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế và hoạt động của tổ chức tín dụng chịu tác động bởi đại dịch COVID-19 và những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới, việc xây dựng đề án tái cơ cấu sẽ càng khó hơn. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo rất quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự phối hợp của các bộ, ban, ngành trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã chủ trì và đã có báo cáo trình các cấp có thẩm quyền về chủ trương tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, đồng thời tích cực phối hợp triển khai với mục tiêu đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng trong thời gian tới, theo đó tạo yên tâm cho người gửi tiền.

4. Năng lực tài chính của TCTD; vốn điều lệ của 4 NHTM Nhà nước (ĐBQH Cao Thị Xuân – Thanh Hóa; ĐBQH Phạm Hùng Thắng – Hà Nam)

So với các nước trên thế giới và trong khu vực thì tiềm lực tài chính của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam vẫn thấp. Trong 4 ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn nhất là vào khoảng 3,8 tỷ USD, mức này thấp hơn rất nhiều so với một số nước trong khu vực ví dụ như Malaysia, Singapore, mức vốn chủ sở hữu của ngân hàng lớn nhất của họ cũng phải 14 đến 19 tỷ USD. Trong thời gian qua, Quốc hội cũng rất quan tâm đến việc tăng vốn để tăng cường tiềm lực tài chính và trong Nghị quyết 43 cũng đã nêu một điểm là cho phép các ngân hàng thương mại nhà nước được tăng vốn điều lệ. Đối với 3 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước chi phối thì dùng từ nguồn lợi nhuận, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do vẫn là ngân hàng 100% vốn nhà nước thì là nguồn ngân sách nhà nước.

Định hướng trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tham mưu, đề xuất với các cấp có thẩm quyền là trong quá trình tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng yêu cầu các tổ chức tín dụng trong hệ thống cần phải tăng vốn, củng cố tiềm lực về vốn trong hoạt động.

5. Năng lực quản trị của TCTD (ĐBQH Trần Hồng Nguyên – Bình Thuận)

Trong quá trình tái cơ cấu thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản để nâng cao khả năng quản trị và kiểm soát nội bộ đặc biệt là Thông tư 13. Trong quy định này các tổ chức tín dụng phải sắp xếp tổ chức bộ máy và thực hiện theo các tuyến phòng thủ để nhận diện rủi ro. Ví dụ tuyến thứ nhất là các hoạt động về kinh doanh, như các tổ chức tín dụng là cấp tín dụng hoặc kinh doanh các loại hình dịch vụ của ngân hàng; tuyến thứ hai, phải có bộ phận quản trị rủi ro, kiểm tra tuyến thực hiện nghiệp vụ kinh doanh; tuyến thứ ba rất quan trọng, đó là kiểm soát nội bộ, ở đây chính là nhiệm vụ của Ban kiểm soát trong một tổ chức tín dụng. Đây là một Ban rất độc lập với Hội đồng Quản trị và Ban điều hành, Ban này đòi hỏi phải tăng cường tính độc lập, phải kiểm tra và phát hiện được vấn đề và thậm chí có thể phải thuê kiểm toán bên ngoài để đánh giá, nhận định từ đó cảnh báo được những rủi ro. Để triển khai Thông tư 13, các ngân hàng cũng phải đầu tư về trang thiết bị công nghệ, sắp xếp nguồn nhân lực phù hợp.

Một thông tư nữa là Thông tư 41 yêu cầu các tổ chức tín dụng phải đảm bảo tuân thủ theo tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn, theo Basel II, tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay về cơ bản các tổ chức tín dụng đã thực hiện theo 41, còn một số tổ chức tín dụng chưa thực hiện đã có kế hoạch triển khai từ đầu năm 2023.

6. Sở hữu chéo (ĐBQH Trịnh Xuân An – Đồng Nai)

Về tình trạng sở hữu chéo, các cặp có sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa tổ chức tín dụng với doanh nghiệp về cơ bản được xử lý, nhưng trên thực tế có thể có những lòng vòng hoặc có thể có những cổ đông cố tình giấu tên hoặc nhờ người khác đứng tên v.v. điều đó đòi hỏi phải qua các cơ quan xác minh mới có thể phát hiện. Hiện nay Thủ tướng Chính phủ cũng đang chỉ đạo Bộ Công an có một kết nối hệ thống dữ liệu công dân và đặc biệt là hệ thống căn cước công dân có gắn chip. Như vậy, tất cả các giao dịch của một cá nhân có căn cước công dân gắn chip đều được lưu giữ lại, sau này các giao dịch trong nền kinh tế ngày càng minh bạch hơn thì việc phát hiện ra những vấn đề không trung thực hoặc nhờ người đứng tên hoặc cố tình che giấu cũng sẽ dễ dàng phát hiện hơn.

7. Lợi nhuận ngân hàng cao, chia lãi khủng; sự chia sẻ của ngành ngân hàng với doanh nghiệp như thế nào (ĐBQH Trần Văn Lâm – Bắc Giang)

Các tổ chức tín dụng theo sự kêu gọi của Ngân hàng Nhà nước đã tham gia, đồng hành cùng với doanh nghiệp và người dân, đặc biệt từ khi đại dịch COVID xảy ra năm 2020, đến nay các tổ chức tín dụng đã thực hiện miễn, giảm lãi của các khoản cho vay đối với doanh nghiệp và người dân. Tổng số tiền giảm tính ra vào khoảng 48.000 tỷ đồng. Đây là con số đáng được ghi nhận với sự ủng hộ, chia sẻ của hệ thống ngân hàng bởi vì bản thân hệ thống ngân hàng hoạt động là trung gian tài chính, nguồn thu từ thu lãi cũng như thu các loại hình dịch vụ khác. Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng cũng gắn liền với rủi ro và nợ xấu có thể thường xuyên phát sinh, cho nên các tổ chức tín dụng cần có dự phòng cho việc xử lý các khoản nợ xấu này.

Trong thời gian vừa qua Ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho doanh nghiệp của người dân. Các tổ chức tín dụng tham gia rất tích cực và theo đó rất nhiều doanh nghiệp có nợ xấu, lẽ ra không đủ điều kiện để vay vốn có thể vay nợ trở lại. Số liệu cho thấy trong quá trình thực hiện Thông tư 01, Thông tư 03 và Thông tư 14 sửa đổi, trong 5 tháng đầu năm 2022, tín dụng đã tăng 8%, ở mức rất cao so với chỉ tiêu là 14% của cả năm 2022. Điều này cho thấy nhờ Thông tư tái cơ cấu các khoản vay và cho phép giữ nguyên nhóm nợ, các doanh nghiệp có khả năng phục hồi sau đại dịch COVID-19 vẫn có thể tiếp tục được vay vốn.

Về lợi nhuận của các ngân hàng, trên thực tế các tổ chức tín dụng cũng là một doanh nghiệp, được thành lập ra thì cũng có mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp khác, bởi vì số vốn của một doanh nghiệp khác không lớn nhưng đối với các tổ chức tín dụng thì quy mô tài sản và vốn của các ngân hàng rất lớn. Nếu đến cuối năm 2020, tổng tài sản toàn hệ thống các tổ chức tín dụng là 14 triệu tỷ đồng, nhưng đến tháng 3/2022 đã lên đến hơn 16 triệu tỷ đồng và tín dụng đã là 12 triệu tỷ đồng. Tài sản của một tổ chức tín dụng, ví dụ một ngân hàng thương mại nhà nước, là 1,6-1,7 triệu tỷ đồng. Nếu lợi nhuận sinh lời là 20.000 tỷ đồng trên tổng tài sản là 1,6-1,7 triệu tỷ đồng thì cũng không phải là lớn, bởi vì theo số liệu tổng hợp được ở một số trang trên thị trường chứng khoán, tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản hoặc tỷ lệ sinh lời trên vốn của các tổ chức tín dụng so với một số các doanh nghiệp ở các ngành khác là không cao.

III. Tín dụng các ngành kinh tế

1. Tín dụng nhà ở, nhà ở xã hội (ĐBQH Đỗ Thị Việt Hà – Bắc Giang)

Trên thực tế, trong số liệu của hệ thống ngân hàng là có 2,2 triệu tỷ đồng dư nợ bất động sản vào cuối quý I/2022, có tới 65% là cho các nhu cầu mua nhà để ở và mua nhà để sửa chữa nhà và phục vụ cho mục đích tiêu dùng. Ngân hàng Nhà nước cũng đã có những chính sách đối với những nhu cầu mua nhà ở cho người có thu nhập thấp, ví dụ Nghị định 100 hiện nay đã thực hiện cho vay qua Ngân hàng Chính sách xã hội đã triển khai. Trong gói 2% hỗ trợ lãi suất cũng có một nhu cầu vay vốn là để cho vay nhà ở xã hội, cho vay công nhân và cải tạo chung cư cũ. Việc này sẽ theo sự rà soát của các địa phương và Bộ Xây dựng sẽ tổng hợp, theo đó những nhu cầu này sẽ được triển khai trong chương trình này.

Ngoài ra, Ngân hàng Chính sách xã hội cũng có một số chương trình cho vay, hỗ trợ nhà ở, hỗ trợ đất ở đối với đối tượng người nghèo, đối tượng chính sách cũng như đối với bà con dân tộc đồng bào thiểu số và miền núi.

2. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn (ĐBQH Trần Thị Thanh Hương – An Giang, ĐBQH Phúc Bình Niê Kdăm – Đăk Lăk)

2.1. Đơn giản hóa thủ tục hành chính

Ngân hàng Nhà nước luôn chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải thực hiện rà soát và đơn giản hóa các thủ tục hành chính để đẩy nhanh tiến độ, thời gian cấp tín dụng và cũng tổ chức nhiều hội nghị kết nối giữa ngân hàng, doanh nghiệp và người dân ở các địa phương, các tỉnh, thành phố, qua đó cũng nắm bắt những thông tin thực tiễn và có sự tham gia của các ngân hàng trên địa bàn để xử lý những khó khăn, vướng mắc cho người dân.

2.2. Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Khi thiết kế các chính sách, đối với điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên, trong đó có lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trong chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp sạch theo Nghị quyết 30 của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đã có Quyết định 813.

Trên thực tế tín dụng đối với lĩnh vực này cũng có những khó khăn, bởi vì số lượng doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận ứng dụng công nghệ cao chưa nhiều, do chưa đáp ứng được các tiêu chí xác nhận theo quy định, nguồn lực tài chính của nhà đầu tư vẫn còn hạn chế, tổ chức tín dụng còn gặp khó khăn trong việc thẩm định, cho vay, bởi vì những lĩnh vực này hầu hết là những lĩnh vực mới, cần chuyên môn, am hiểu về công nghệ cao, khó thẩm định. Cho nên, trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ theo dõi việc triển khai chương trình và sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan, đặc biệt là Bộ Khoa học và Công nghệ có sự phối hợp để làm sao tín dụng đối với lĩnh vực này được phát triển.

3. Tín dụng bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp (ĐBQH Lê Thanh Vân – Cà Mau, ĐBQH Đỗ Thị Việt Hà – Bắc Giang, ĐBQH Nguyễn Thị Kim Bé – Kiên Giang, ĐBQH Phan Đức Hiếu – Thái Bình)

Trong rất nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước đều có chủ trương đối với vốn tín dụng là mở rộng tín dụng phải đi đôi với an toàn, hiệu quả và tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; kiểm soát vốn vào những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Đối với lĩnh vực bất động sản, rủi ro là vấn đề được quan tâm nhất của hoạt động ngân hàng, như rủi ro mất vốn, rủi ro tín dụng và vô cùng quan trọng nữa là rủi ro về thanh khoản, bởi vì bản chất của tín dụng bất động sản thường giá trị lớn và kỳ hạn dài. Theo báo cáo của Bộ Xây dựng kỳ hạn tín dụng bất động sản thường 94% là dài hạn, cho nên khi dài hạn như vậy sẽ tiềm ẩn rủi ro về vấn đề chi trả, vấn đề chênh lệch kỳ hạn (trong khi vốn của ngân hàng có khoảng 80% là vốn ngắn hạn).

Ngân hàng Nhà nước cũng đưa ra một số biện pháp để kiểm soát, ví dụ như quy định đối với các khoản tín dụng cho vay đối với kinh doanh bất động sản phải có hệ số điều chỉnh rủi ro của các khoản này là 200%. Còn những khoản tín dụng được thế chấp bằng tài sản đảm bảo là bất động sản dao động khoảng từ 30 đến 150, v.v. Như vậy, tùy theo nhận diện rủi ro để các tổ chức tín dụng tự quyết định.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước có một chỉ tiêu rất quan trọng là chỉ tiêu tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. Trước đây tỷ lệ này ở mức cao nhưng hiện nay Ngân hàng Nhà nước dần dần đưa xuống 40%, rồi 37% và đến tháng 9/2023 sẽ là 30, bằng cách này để có ngưỡng cho các tổ chức tín dụng tự cân đối nguồn vốn của mình để cho vay phù hợp.

Ngoài ra, thị trường bất động sản có những tài sản tăng giá, thổi giá, như vậy sẽ liên quan đến các khoản vay có tài sản đảm bảo. Trên thực tế, các tổ chức tín dụng khi cho vay thì có thể có tài sản đảm bảo bằng bất động sản. Ngân hàng Nhà nước đã có những quy định và chỉ đạo các tổ chức tín dụng là khi đã cho vay các khoản vay có tài sản đảm bảo thì phải thường xuyên đánh giá lại những tài sản đảm bảo để nhận diện những rủi ro của khoản vay. Đặc biệt, đối với các tổ chức tín dụng cho vay có tài sản đảm bảo ở những địa bàn giá bất động sản bong bóng và rất cao thì các tổ chức tín dụng cũng phải rất cẩn trọng trong vấn đề kiểm soát rủi ro khi cho vay.

Đối với tín dụng đầu tư, kinh doanh chứng khoán, khi các tổ chức tín dụng tham gia vào thị trường chứng khoán Ngân hàng Nhà nước đã ban hành khuôn khổ pháp lý để đảm bảo các tổ chức tín dụng phải kiểm soát được rủi ro. Ví dụ, đối với cổ phiếu thì Ngân hàng Nhà nước quy định là các tổ chức tín dụng không được trực tiếp mua cổ phiếu của doanh nghiệp mà phải thành lập công ty con, công ty liên kết để mua. Nếu tổ chức tín dụng đầu tư nhiều và trực tiếp mua cổ phiếu thì sẽ có những rủi ro đối với vấn đề chi trả nếu người dân rút tiền. Chính vì vậy, khi thành lập công ty con và công ty liên kết để đầu tư vào cổ phiếu, rủi ro của các ngân hàng được tách biệt ra. Ngoài ra, trong quy định của pháp luật hiện hành, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu khi cấp tín dụng cho vay đối với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh chứng khoán, bao gồm cả cổ phiếu, cả trái phiếu thì tỷ lệ cấp tín dụng không vượt quá 5% vốn điều lệ. Còn việc cấp tín dụng thì hoàn toàn là do tổ chức tín dụng thỏa thuận với khách hàng.

Đối với trái phiếu, khi các tổ chức tín dụng là người phát hành trái phiếu, tức là bán trái phiếu của mình cho người dân, người dân có thể đến gửi tiền dưới dạng chứng chỉ tiền gửi, nhưng cũng có thể mua trái phiếu của tổ chức tín dụng phát hành, trái phiếu này kỳ hạn là trên 1 năm. Có một thuận lợi cho người dân là có thể nắm giữ trái phiếu này khi đến hạn thì nhận được tiền như đi rút tiền gửi. Đối với các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu chuyển đổi thì người dân có thể thay vì nắm giữ tiền gửi có thể trở thành cổ đông nhỏ lẻ của tổ chức tín dụng. Đối với các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu thì cũng như huy động nhưng với kỳ hạn 1 năm, trên 1 năm, điều này thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong việc cân đối nguồn vốn, bởi vì hiện nay tiền gửi của hệ thống các tổ chức tín dụng chủ yếu là ngắn hạn, chiếm 82%, trong khi đó áp lực cho vay trung, dài hạn lớn. Trong quá trình quản lý, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về điều kiện, tiêu chuẩn và các tổ chức tín dụng phải đồng thời thực hiện các quy định pháp luật về chứng khoán, về trái phiếu doanh nghiệp theo Nghị định 153.

Còn với vai trò các tổ chức tín dụng là người đi mua, đầu tư trái phiếu do doanh nghiệp phát hành, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành những quy định khá chặt chẽ và coi khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp như là một khoản cho vay để đảm bảo được khi mua trái phiếu cũng như khi cho vay thì phải thu hồi được nợ. Ngân hàng Nhà nước quy định các tổ chức tín dụng có nợ xấu trên 3% không được mua trái phiếu doanh nghiệp. Đồng thời, tổ chức tín dụng chỉ được mua trái phiếu của những doanh nghiệp có đủ khả năng trả nợ, thanh toán trái phiếu và không được có nợ xấu trong vòng 12 tháng và tổ chức tín dụng phải có quy trình nội bộ để kiểm soát hoạt động này. Trên thực tế số dư nợ mua trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng hiện nay chiếm khoảng 2,9, gần 3% trong tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng. Trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải rà soát kỹ và cũng nhận diện rủi ro để có các biện pháp phòng ngừa và xử lý.

4. Tín dụng đen (ĐBQH Nguyễn Thanh Cầm – Tiền Giang, ĐBQH Phạm Văn Hòa – Đồng Tháp, ĐBQH Mai Khanh – Ninh Bình, ĐBQH Phạm Văn Thịnh – Bắc Giang)

Đối với các hình thức về tín dụng đen và giải pháp, trên thực tế tín dụng đen là một vấn đề được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có Chỉ thị số 12 giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành thực hiện các giải pháp hạn chế tín dụng đen. Ngân hàng Nhà nước đã được giao nhiệm vụ làm thế nào để tăng cường các kênh tiếp cận tín dụng chính thức. Trong thời gian vừa qua về hành lang pháp lý Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, trong đó có một phần quy định về cho vay phục vụ nhu cầu của đời sống. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang rà soát, sửa đổi để có thể cho áp dụng những công nghệ vào hoạt động cho vay trong việc cấp cũng như là lưu giữ các hồ sơ để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vay và cũng đã ban hành một thông tư riêng về tín dụng của công ty tài chính, trong đó quy định rất rõ các vấn đề đòi nợ hay vấn đề về lãi suất. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng luôn luôn chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải đa dạng hóa sản phẩm, cũng triển khai các chính sách cho vay ở vùng sâu, vùng xa. Ngân hàng Nhà nước đã chủ trì xây dựng chiến lược về tài chính toàn diện quốc gia và theo đó thì tất cả những đối tượng ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc cũng như là những người yếu thế cũng sẽ được quan tâm để triển khai và đặc biệt Bộ Công an cũng rất tích cực phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức các Hội nghị về phòng, chống tín dụng đen ở rất nhiều khu vực trên các tỉnh, thành trong thời gian vừa qua.

Một điểm quan trọng, đó là Ngân hàng Nhà nước rất chú trọng truyền thông để bà con ở vùng sâu, vùng xa, ở vùng nông thôn hiểu được các chính sách về tín dụng của Nhà nước, tín dụng cho hộ nghèo, đối tượng chính sách, v.v.. Ngân hàng Nhà nước đã triển khai một số những chương trình trên truyền hình như là chương trình tiền khéo, tiền khôn, chương trình tay hòm chìa khóa trên VTV1 và VTV3, qua đó cũng có rất nhiều những hướng dẫn để bà con có thể biết và tiếp cận những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.

Về việc đòi nợ của công ty tài chính, trên cơ sở phản ánh của dư luận, của báo chí, Ngân hàng Nhà nước đã rà soát và cũng thấy được cần phải sửa đổi các văn bản quy định pháp luật. Hiện nay Thông tư của Ngân hàng Nhà nước quy định về cho vay của các công ty tài chính cũng đã có những chỉnh sửa theo hướng là các công ty không được đòi nợ theo các biện pháp đe dọa và cũng quy định rõ thời gian để đòi nợ phải từ 9 giờ đến 21 giờ, v.v…

5. Tín dụng cho dự án giao thông (ĐBQH Cao Thị Xuân – Thanh Hóa)

Việc triển khai các dự án cơ sở hạ tầng giao thông là một vấn đề rất quan trọng và cần rất nhiều nguồn vốn từ các nguồn, trong đó có đầu tư công, có thu hút vốn nước ngoài và vốn của khu vực tư nhân, trong đó có vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Do vốn phục vụ cho các nhu cầu để xây dựng giao thông thường là giá trị rất lớn, thời hạn vay rất dài và tài sản đảm bảo của các khoản vay này chủ yếu là quyền thu phí. Tuy nhiên, trong thực tiễn thời gian vừa qua, các ngân hàng cho vay đối với dự án BOT cũng có những khó khăn, nợ xấu trong các dự án này cao, bởi vì nhiều dự án, phương án tài chính không được như phương án xây dựng ban đầu. Hy vọng rằng trong thời gian tới các chính sách đối với BOT cũng có cơ sở để các tổ chức tín dụng thẩm định và cho vay. Trong thực tế, nếu như các tổ chức tín dụng không đủ vốn hoặc khi cho vay các dự án này mà bị vượt các tỷ lệ đảm bảo an toàn thì có thể là đồng tài trợ với các tổ chức tín dụng khác, hoặc nếu vượt 15% và 25% theo quy định giới hạn tín dụng của Luật Các tổ chức tín dụng thì sẽ trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Đối với các doanh nghiệp tham gia triển khai thi công một số đoạn hoặc khâu trong quá trình xây dựng, hệ thống ngân hàng vẫn cung cấp vốn tín dụng cho các doanh nghiệp này để triển khai các hoạt động.

6. Sinh viên vay vốn khởi nghiệp (ĐBQH Nguyễn Thị Thu Dung – Thái Bình)

Trên thực tế cấp tín dụng cho học sinh, sinh viên cũng là một chủ trương của nhà nước. Hiện nay Ngân hàng Chính sách xã hội cũng có chương trình cho vay học sinh, sinh viên. Hoạt động khởi nghiệp cũng là một chủ trương chúng ta cần thúc đẩy, nhưng giai đoạn đầu khởi nghiệp có lẽ cũng cần có sự hỗ trợ từ các quỹ khác. Khi sinh viên có sản phẩm được thương mại trên thị trường, bản thân các tổ chức tín dụng sẽ là những đơn vị thẩm tra, đánh giá khả năng sản phẩm do sinh viên tạo ra, lúc đó khả năng cấp tín dụng sẽ được nâng cao.

IV. Thanh toán

1. Tội phạm công nghệ cao

1.1. Mạo danh (ĐBQH Phạm Văn Thịnh – Bắc Giang)

Hoạt động nhận tiền gửi là một trong những hoạt động chính của hệ thống ngân hàng, khuôn khổ pháp lý về mở tài khoản đã được Ngân hàng Nhà nước ban hành rất đầy đủ, chi tiết. Đặc biệt là với sự phát triển của công nghệ cao, Ngân hàng Nhà nước đã tạo tiền đề để chuyển sang hoạt động ngân hàng số trong tương lai và ban hành văn bản cho phép mở tài khoản qua phương tiện điện tử và xác thực qua điện tử. Trên thực tế, các cá nhân khi mở tài khoản thì đều phải xác thực định danh của mình, xác thực điện tử thì cũng phải xác thực qua chứng minh nhân dân và căn cước công dân. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua cũng có những hiện tượng lừa đảo trên mạng để lấy những thông tin của chủ tài khoản và trên cơ sở đó vào Internet Banking để lấy trộm tiền của tài khoản. Hoặc cũng có những hiện tượng chèn sóng, ví dụ như là một ngân hàng có một tin nhắn đối với một khách hàng, nhưng người ta đã chèn sóng vào đó và tiếp ngay sau tin nhắn của ngân hàng đó thì khách hàng không thể phân biệt được đấy là tin nhắn của ngân hàng hay là tin nhắn giả mạo. Trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải phối hợp với các bộ, cơ quan chức năng để xác minh, để có những thông tin và đặc biệt là có những giải pháp để cảnh báo đối với người dân về những hiện tượng này, để tất cả những người có tiền trong tài khoản lưu ý khi mình nhận được những tin nhắn thì phải rất cảnh giác.

1.2. Lộ thông tin cá nhân (ĐBQH Lý Văn Huấn – Thái Nguyên)

Trên thực tế cùng với phát triển của khoa học, công nghệ trên thế giới cũng như ở Việt Nam thì tình hình tội phạm cũng xuất hiện. Đối với lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tội phạm cũng thường tập trung tấn công bởi vì lĩnh vực này liên quan đến tiền. Do đó, đây cũng là một vấn đề mà ngành ngân hàng rất quan tâm. Trên thực tế, qua tổng hợp, đánh giá Ngân hàng Nhà nước thấy rằng tội phạm thường tấn công vào người sử dụng dịch vụ của ngân hàng và có thể có một số những nhóm tội phạm như:

Thứ nhất là lừa đảo trên mạng, lấy được thông tin của cá nhân, sau đó dùng thông tin đó để tiếp cận vào Internet Banking để lấy tiền.

Dạng thứ hai là tấn công để đánh cắp những thông tin của khách hàng, sau đó mang đi mua bán hoặc là đòi tiền chuộc.

Hình thức thứ ba là có thể sử dụng các giấy tờ giả, căn cước công dân giả, giấy chứng minh thư nhân dân giả, bao gồm căn cước công dân ở trên phương tiện điện tử, lấy những thông tin và ảnh của khách hàng để lừa đảo và lấy tiền từ ngân hàng. Nhận diện tình hình như vậy, hằng năm Thống đốc đều ban hành Chỉ thị yêu cầu các tổ chức tín dụng phải tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật. Ngân hàng Nhà nước cũng ban hành hành lang pháp lý yêu cầu các tổ chức tín dụng đều phải có những quy trình, thủ tục trong việc nhận diện rủi ro, phát hiện vấn đề. Đồng thời, thường xuyên chỉ đạo và thực hiện kiểm tra các tổ chức tín dụng về an toàn thông tin.

Đối với các tổ chức tín dụng, theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, cũng đầu tư để nâng cấp những trang thiết bị, đặc biệt là phần mềm để phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật. Trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước cũng phối hợp với Bộ Công an đưa ra những tình huống ứng cứu sự cố, đồng thời khi sự cố xảy ra thì phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Cục An toàn thông tin của Bộ Thông tin và Truyền thông để có thể xử lý và ngăn chặn. Trong thời gian vừa qua, với sự tham gia của các bộ, các ngành cũng đã ngăn chặn đối với những trường hợp xảy ra.

Có một điểm vô cùng quan trọng đó là người sử dụng luôn phải cảnh giác để không bị tội phạm lợi dụng. Trong thực tế Ngân hàng Nhà nước cũng triển khai nhiều chương trình trên truyền hình VTV1 và VTV3, trong đó rất nhiều cách thức hướng dẫn về sử dụng dịch vụ, sử dụng thẻ hay là cảnh giác những tin nhắn. Đây là những chương trình nhận được sự quan tâm của đông đảo người dân trong cả nước.

1.3. Quản lý cổng thanh toán Quốc gia (ĐBQH Mai Khanh – Ninh Bình)

Đối với hoạt động chuyển tiền qua biên giới, đây là một hoạt động thường xuyên, liên tục, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập rất là sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Cho nên, những giao dịch về thương mại và đầu tư số lượng ngày càng lớn, yêu cầu thanh toán hằng ngày càng cao. Trong tất cả các giao dịch thanh toán qua biên giới phân ra thành rất nhiều loại hình giao dịch. Những giao dịch vãng lai, như giao dịch về hàng hóa, dịch vụ hay chuyển tiền phục vụ cho mục đích tiêu dùng vãng lai thì các tổ chức và cá nhân được tự do thực hiện, mỗi một ngày thanh toán này nhiều triệu giao dịch. Đối với các tổ chức tín dụng không thể kiểm soát trước, bởi vì như vậy sẽ ách tắc toàn bộ các giao dịch. Quy định của pháp luật hiện hành yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện kiểm tra những chứng từ và các tổ chức, cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về sự chính xác của chứng từ đó vì bản thân một cán bộ ngân hàng khó có thể xác định ngay được chứng từ giả mạo khi thực hiện thanh toán nên sẽ kiểm tra sau. Theo quy định về phòng, chống rửa tiền, tất cả các giao dịch đối với ngoại tệ trên 1.000 USD sẽ được đưa vào hệ thống của giao dịch đáng ngờ. Qua phân tích dữ liệu, nếu như có những trường hợp bất thường, những dấu hiệu nghi ngờ thì Ngân hàng Nhà nước sẽ chuyển cho các cơ quan của pháp luật để điều tra, xác minh. Còn đối với nhu cầu thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản thì các tổ chức tín dụng phải thực hiện thanh toán. Đương nhiên doanh nghiệp và người dân là chủ tài khoản phải nhận thức được những giao dịch nào bị cấm không thực hiện, còn những giao dịch nào được thực hiện.

2. Đồng tiền kỹ thuật số quốc gia, tình hình triển khai thí điểm mobile money (ĐBQH Nguyễn Thành Công – Ninh Bình)

Có một số khái niệm cần phân biệt:

Thứ nhất là tiền điện tử. Tiền điện tử là thể hiện của đồng tiền pháp định, hiện nay đồng tiền pháp định do ngân hàng trung ương phát hành dưới dạng tiền giấy, tiền xu, nhưng khi một người có tiền giấy, tiền xu có thể không cầm tiền giấy, tiền xu mà lưu giữ dưới dạng điện tử ở các thiết bị điện tử như điện thoại di động hay mạng máy tính, v.v. tiền điện tử này đòi hỏi phải có tỷ lệ 1-1 với tiền pháp định và là phương tiện thanh toán. Trên thực tế Ngân hàng Nhà nước đã có thông tư quy định về ví điện tử, thực ra đó chính là tiền điện tử. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang dự thảo nghị định sửa đổi Nghị định 101 về thanh toán không dùng tiền mặt, sẽ làm rõ khái niệm này.

Trên thực tế, khái niệm về tiền ảo và tài sản ảo hay được nhắc đến như là Bitcoin, tiền này không phải là đồng tiền pháp định do ngân hàng trung ương của các nước phát hành, mà là do các tổ chức trong khu vực tư nhân họ tạo ra bằng các thuật toán trên hệ thống mạng máy tính, như là đồng tiền Bitcoin, v.v.. Đồng tiền này chỉ được thừa nhận trong một cộng đồng nhất định, ví dụ như một cộng đồng game hay sàn công nghệ, v.v.. Đối với các nước, mỗi một nước họ có cách thức quản lý khác nhau, có những nước người ta phân loại những đồng tiền ảo và tài sản ảo này như là một tài sản hoặc là một chứng khoán để áp dụng thu thuế hoặc cấp phép giao dịch. Đối với vấn đề này của Việt Nam thì Chính phủ đã giao cho các bộ, ngành chức năng nghiên cứu để xây dựng hành lang pháp lý. Ngân hàng Nhà nước được giao vai trò sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng.

Đối với đồng tiền kỹ thuật số quốc gia, là đồng tiền pháp định do ngân hàng trung ương phát hành dưới dạng điện tử chứ không phải tiền giấy và tiền xu. Đồng tiền kỹ thuật số hiện nay các nước trên thế giới đang trong quá trình nghiên cứu và nhiều nước thử nghiệm. Đối với Việt Nam, Chính phủ đã thành lập một tổ công tác để nghiên cứu tham mưu về đồng tiền kỹ thuật số này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là Tổ trưởng và đã tổ chức họp được một số phiên và hiện đang trong giai đoạn nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới.

Đối với Mobile Money, trong thời gian vừa qua, các bộ, ngành cùng với Ngân hàng Nhà nước đã tham mưu trình Chính phủ để tổ chức triển khai Mobile Money. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận cho 3 doanh nghiệp viễn thông để triển khai và sau gần 5 tháng, tính đến cuối tháng 3 năm nay thì có khoảng 1,1 triệu tài khoản được mở tại các doanh nghiệp thí điểm và số lượng giao dịch đã đạt là 8,5 triệu giao dịch, với tổng giá trị khoảng hơn 370 tỷ đồng. Đặc biệt, ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, số tài khoản này là khoảng 660.000 tài khoản, chiếm hơn 60% tổng số tài khoản.

Về phát triển điểm kinh doanh, cuối tháng 3 thì có hơn 3.000 điểm kinh doanh được thiết lập, trong đó vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo khoảng 900 điểm và chiếm khoảng 30% tổng số điểm kinh doanh được thiết lập.

Về phát triển đơn vị chấp nhận thanh toán, tổng số đơn vị chấp thuận thanh toán thiết lập đến cuối tháng 3/2022 là hơn 12.800 đơn vị. Như vậy, có thể nói rằng chủ trương này đã và đang được triển khai trong cuộc sống và đây là thí điểm cho nên Ngân hàng Nhà nước cùng với các bộ, các ngành cũng theo dõi, đánh giá để tổng kết thí điểm, để có thể tham mưu đề xuất về các hành lang pháp lý cũng như cách thức tổ chức sau này.

3. Quản lý tiền mặt lưu thông (ĐBQH Phạm Văn Hòa – Đồng Tháp)

Về vấn đề thanh toán bằng tiền mặt. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang trong quá trình tổng kết, đánh giá để sửa đổi các văn bản và những phần quy định về thanh toán tiền mặt sẽ được đánh giá kỹ tác động đối với nền kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế, đối với những giao dịch tiền mặt hay không tiền mặt mà vượt ngưỡng quy định theo Luật Phòng, chống rửa tiền thì các tổ chức, cơ quan thực hiện thanh toán đều có yêu cầu phải báo cáo cho Ngân hàng nhà nước. Trong trường hợp Ngân hàng nhà nước đánh giá, phân tích, có thể phối hợp và chuyển các cơ quan pháp luật để xác minh, điều tra.

4. Chuyển đổi số (ĐBQH Nguyễn Đại Thắng – Hưng Yên)

Chuyển đổi số là một xu hướng ở các nước trên thế giới hiện nay, nhiều nước trên thế giới cũng đang tổ chức và triển khai. Ở Đại hội Đảng lần thứ XIII, trong nghị quyết cũng xác định rất rõ là Việt Nam phải hướng đến chuyển đổi số và phát triển kinh tế số, xã hội số và Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các chương trình đặt ra những mục tiêu cụ thể như là đến năm 2025 phải phấn đấu tối thiểu 50% và đến năm 2030 phấn đấu tối thiểu 70%. Các khoản vay, các khoản cho vay của các ngân hàng và các công ty tài chính đối với những khoản vay nhỏ lẻ phục vụ cho tiêu dùng phải được thực hiện qua kênh số.

Trên thực tế, ngành ngân hàng cũng là một trong những ngành rất tích cực trong vấn đề ứng dụng công nghệ và đã có các bước nền tảng để chuyển sang chuyển đổi số, ví dụ như khách hàng mở tài khoản trên phương tiện điện tử mà không cần đến ngân hàng, tức eKYC. Đối với các hoạt động khác như là thanh toán, gửi tiền về cơ bản bây giờ các ngân hàng thực hiện trên kênh số và người dân có thể ở nhà và tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Riêng đối với hoạt động cho vay có hai câu hỏi rất quan trọng trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, đó là: thứ nhất phải xác định khách hàng đó là ai? Hiện nay vấn đề xác thực khách hàng, kể cả khách hàng đến trực tiếp ngân hàng cũng như thông qua phương tiện điện tử để mở tài khoản đã có rồi. Nhưng câu hỏi thứ hai là khách hàng đấy có khả năng trả nợ hay không, đây là một điểm rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Đối với Việt Nam để xác thực khách hàng có khả năng trả nợ hay không, để cho vay trên phương tiện điện tử mà không cần khách hàng phải đến ngân hàng đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải tập hợp được rất nhiều dữ liệu thông tin cơ sở về khách hàng để thẩm định được khách hàng đấy có đủ khả năng trả nợ hay không. Điều này cần phải có thời gian và hiện nay Ngân hàng Nhà nước cũng đang tích cực phối hợp với Bộ Công an. Hiện nay Bộ Công an cũng đang triển khai rất quyết liệt về dự án xây dựng cơ sở dữ liệu công dân, ở đó có thể kết nối với các bộ ngành và trong đó kết nối với các ngân hàng. Thời gian qua, một số ngân hàng đã kết nối và thử nghiệm thông qua căn cước công dân, kết nối với tất cả các ngành khác nên các thông tin về khách hàng có thể được Ngân hàng Nhà nước tham khảo và sẽ quyết định cho vay trên cơ sở qua phương tiện điện tử.

V. Thị trường vàng (ĐBQH Nguyễn Phương Thủy – TP Hà Nội)

Giá vàng trên thị trường quốc tế diễn biến rất phức tạp và cũng rất khó lường bởi vì giá vàng chịu tác động bởi rất nhiều yếu tố, như chỉ số đồng USD hay là căng thẳng chính trị giữa Ukraine và Nga, một loạt các sự kiện về thương mại, về chính trị khác. Có thời điểm giá vàng tăng lên đến 2.000 USD/ounce, nhưng cũng có những thời điểm giá vàng lại xuống mức khoảng 1.700 hay 1800 USD/ounce. Giá vàng ở trong nước có cùng xu hướng với giá vàng của thế giới, nhưng tốc độ điều chỉnh tăng của giá vàng trong nước thì nhanh hơn và tốc độ điều chỉnh giá vàng xuống thì lại chậm hơn giá vàng của thế giới. Giá vàng của các nhãn thương hiệu khác ngoài SJC, tức là vàng nguyên liệu, về cơ bản, chênh lệch giá vàng trong nước so với quốc tế thì chênh vào khoảng 2 triệu đồng một lượng, riêng có giá vàng SJC tăng ở mức lớn, khoảng 16-17 triệu trên một lượng. Qua đánh giá, phân tích, Ngân hàng Nhà nước thấy rằng có những nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, thực hiện chủ trương chống vàng hóa trong nền kinh tế, từ năm 2012 thực hiện Nghị định số 24 và đặc biệt là từ năm 2014 trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước không nhập vàng về để sản xuất vàng miếng, như vậy nguồn cung vàng miếng trong nước đã bị giảm đi, bởi vì có thể có một phần vàng đó được chuyển sang sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ.

Thứ hai, với biến động của giá vàng thế giới như vậy, bản thân các doanh nghiệp kinh doanh vàng miếng cũng rất lo ngại về rủi ro, nên thường niêm yết giá rất cao. Đồng thời, SJC là một thương hiệu vàng người dân ưa chuộng hơn cả, cho nên họ càng niêm yết giá cao.

Trong Nghị định 24 có một chính sách rất quan trọng, đó là Ngân hàng Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng. Khi đánh giá tình hình để quyết định xem sản xuất vàng miếng như thế nào, tại thời điểm đó có một số thương hiệu vàng ngoài thương hiệu SJC nhưng thương hiệu SJC chiếm khoảng trên 90% trên thị trường. Lúc đó Ngân hàng Nhà nước cân nhắc lựa chọn thương hiệu nào để sản xuất, thương hiệu riêng của Ngân hàng Nhà nước hay lựa chọn một thương hiệu khác.

Sau khi phân tích, đánh giá những chi phí và lợi ích, nếu lựa chọn đưa ra một thương hiệu vàng của Ngân hàng Nhà nước riêng, hoặc lựa chọn một trong số các thương hiệu không phải SJC thì có thể trên thị trường người dân sẽ chuyển đổi từ thương hiệu vàng SJC đang chiếm 90% sang một thương hiệu mà Ngân hàng Nhà nước lựa chọn, như vậy vô hình chung sẽ tự mất rất nhiều chi phí của xã hội vào một việc không cần thiết. Chính vì như thế mà Ngân hàng Nhà nước sau Nghị định 24 có quyết định sản xuất vàng miếng nhưng thuê SJC gia công và dưới sự quản lý rất chặt chẽ của Ngân hàng nhà nước. Từ năm 2014 đến nay nguồn cung vàng SJC trên thị trường là Ngân hàng Nhà nước không cung ra theo chủ trương chống vàng hóa, các doanh nghiệp cũng lo ngại rủi ro, biến động của giá vàng rất khó lường, SJC giá cao nhưng mua cao lại bán cao, còn những thương hiệu ngoài SJC thì mua thấp lại bán thấp. Cho nên, nếu như người dân lựa chọn vàng SJC mua cao thì lúc bán cũng được giá cao và nếu lựa chọn các thương hiệu khác thì mua thấp và bán thấp. Tuy nhiên, ý kiến của đại biểu Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ ghi nhận và trong quá trình tổng kết Nghị định 24 cũng sẽ phân tích, đánh giá. Chúng ta đã mất rất nhiều công để có được sự ổn định, bây giờ Ngân hàng nhà nước có thể không độc quyền nữa hoặc cho các thương hiệu khác sản xuất vàng miếng thì cần phải đánh giá rất kỹ lưỡng và lúc đó thì chắc chắn là sẽ xin ý kiến của đông đảo các bên liên quan.

Với vai trò quản lý nhà nước về vấn đề vàng, Ngân hàng Nhà nước cũng chuẩn bị sẵn sàng các phương án để can thiệp nếu cần thiết. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, người dân cũng không có nhu cầu mua vàng miếng nhiều bởi vì đang có hiện tượng bán ròng, có nghĩa khi giá càng cao thì càng nhiều người dân mang đi bán để lấy Việt Nam đồng. Tuy chưa tổ chức thực hiện nhập khẩu về để can thiệp vàng, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng những phương án để trong trường hợp cần thiết sẽ thực hiện.

 

 


  • aA
  • Categories:
  • Thống đốc NHNN trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội
CÁC tin KHÁC
Trả lời chất vấn của ĐBQH Phúc Bình Niê KDăm, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk
06/08/2025
Trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre
06/08/2025
Trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Ngọc Xuân Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương
06/08/2025
Nội dung trả lời chất vấn tại phiên họp thứ 14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
06/08/2025
Trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Dương Khắc Mai, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Nông
06/08/2025
Showing 1 to 5 of 29
  • 1
  • 2
  • 3
  • 6
Giới thiệu NHNN
  • Sơ lược quá trình thành lập và phát triển
  • Chức năng nhiệm vụ
  • Ban lãnh đạo đương nhiệm
  • Lãnh đạo NHNN qua các thời kỳ
Lịch làm việc của Ban Lãnh đạo NHNN
Các bài phát biểu
CPI
Lãi Suất
Dự trữ bắt buộc
Hoạt động thị trường tiền tệ
  • Nghiệp vụ thị trường mở
  • Thông tin chào bán tín phiếu NHNN
  • Đấu thầu Tín phiếu kho bạc nhà nước
    • Thông báo đấu thầu
    • Kết quả đấu thầu
  • Giấy mời tham gia đấu thầu vàng
Cải cách hành chính
  • Tin tức CCHC
  • Bản tin CCHC nội bộ
  • Văn bản CCHC
  • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
  • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
  • Danh mục điều kiện kinh doanh
  • Danh mục báo cáo định kỳ
  • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
  • Đào tạo ISO
Dịch vụ công trực tuyến
Hoạt Động Khác
  • Đầu tư, đấu thầu
    • Thông tin đấu thầu
    • Các dự án đang chuẩn bị đầu tư
    • Các dự án đang triển khai
    • Các dự án đã hoàn tất
  • Tài chính vi mô tại Việt Nam
  • Ổn định tài chính
    • Giới thiệu
      • Ổn định tài chính và vai trò của ổn định tài chính
      • Vai trò của NHTW đối với ổn định tài chính
    • Báo cáo chuyên đề về ổn định tài chính
  • Hợp tác quốc tế
    • Quan hệ với ADB
    • Quan hệ với IMF
    • Quan hệ với IBEC - IIB
    • Quan hệ với WB
    • Quan hệ với AIIB
    • Quan hệ với BIS
    • Quan hệ song phương
      • Tổng quan về hoạt động hợp tác song phương
      • Khu vực châu Á
      • Khu vực châu Âu
      • Khu vực châu Mỹ
      • Khu vực châu Phi
      • Khu vực châu Đại Dương
    • Quan hệ đa phương
      • Tổng quan về hoạt động hợp tác đa phương
      • Giới thiệu tổ chức APEC
      • Giới thiệu tổ chức ASEM
      • Giới thiệu tổ chức WTO
      • Giới thiệu tổ chức ASEAN
      • Giới thiệu SEACEN
  • Công nghệ thông tin
    • Chiến lược phát triển và ứng dụng CNTT trong hoạt động ngân hàng
    • Hỗ trợ kỹ thuật
    • An toàn thông tin
      • Danh sách đầu mối ứng cứu sự cố ANTT
      • Hoạt động mạng lưới ứng cứu sự cố ANTT
      • Văn bản chính sách ANTT
      • Tài liệu tuyên truyền nâng cao nhận thức ANTT
  • Hoạt động khoa học công nghệ
    • Các chương trình đề tài
    • Kết quả các chương trình, đề tài
    • Hợp tác nghiên cứu
    • Dịch vụ khoa học công nghệ
    • Chiến lược phát triển ngành ngân hàng
  • Tổ chức cán bộ
    • Tuyển dụng
  • Thi đua khen thưởng
    • Văn bản về thi đua khen thưởng
    • Công tác thi đua khen thưởng
    • Lấy ý kiến nhân dân đối với tập thể, cá nhân được đề nghị khen thưởng cấp nhà nước
  • Hệ thống báo cáo phục vụ điều hành CSTT quốc gia
  • Hoạt động Tổ chức tín dụng
  • Hoạt động đoàn thể
  • Tài chính kế toán
    • Chế độ kế toán của NHNN
      • Văn bản quy phạm pháp luật
      • Văn bản hướng dẫn
    • Quản lý tài chính, tài sản của NHNN
      • Văn bản
      • Tình hình triển khai
    • Chế độ kế toán của TCTD
      • Văn bản quy phạm pháp luật
      • Văn bản hướng dẫn
    • Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
Cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
  • Các chính sách của NHNN
  • Các chính sách của TCTD
  • Giải đáp chính sách
  • Hỗ trợ pháp lý cho DNVVN
NHNN với Quốc hội và cử tri
  • Thống đốc NHNN trả lời đại biểu Quốc hội và cử tri
  • Thống đốc NHNN trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội
  • Thống đốc trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri
    • Thống đốc trả lời kiến nghị cử tri theo tỉnh, thành phố
    • Thống đốc trả lời kiến nghị cử tri theo nhóm vấn đề
  • Hoạt động về công tác Quốc hội
  • Báo cáo, giải trình
    • Báo cáo của NHNN
    • Giải trình của NHNN
  • Tài liệu tham khảo
    • Nghị quyết của Quốc hội
    • Báo cáo tại các Kỳ họp của Quốc hội
    • Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
  • Liên hệ
Công bố thông tin của Doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành Ngân hàng
  • Danh sách Doanh nghiệp do NHNN quản lý và phần vốn góp tại Doanh nghiệp
  • Thông tin định kỳ
    • Chiến lược phát triển của doanh nghiệp
    • Kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển 05 năm của doanh nghiệp
    • Kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển hằng năm của doanh nghiệp
    • Báo cáo đánh giá về kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm và 03 năm gần nhất tính đến năm báo cáo
    • Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ công ích và trách nhiệm xã hội khác (nếu có)
    • Báo cáo thực trạng quản trị và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
    • Báo cáo tình hình đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp
    • Quyết định giao chỉ tiêu đánh giá hằng năm
    • Kế hoạch giám sát các doanh nghiệp
    • Báo cáo tài chính 06 tháng và báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp
    • Báo cáo chế độ tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp
    • Báo cáo tình hình thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp hằng năm
  • Thông tin bất thường
Hệ thống các TCTD
  • Ngân hàng
    • Ngân hàng thương mại
      • NHTM Nhà nước
      • NHTM Cổ phần
      • Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
      • Ngân hàng liên doanh
    • Ngân hàng Chính sách xã hội
    • Ngân hàng Hợp tác xã
  • TCTD phi ngân hàng
    • Công ty tài chính
    • Công ty cho thuê tài chính
    • TCTD phi ngân hàng khác
  • Tổ chức tài chính vi mô
  • Quỹ tín dụng nhân dân
  • Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
  • Văn phòng đại diện
Chương trình, chính sách tín dụng trọng điểm
  • Cơ chế, chính sách tín dụng, các chương trình, gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
    • Văn bản chỉ đạo, điều hành
    • Kết quả triển khai
  • Chương trình khác
    • Kết quả triển khai
    • Văn bản chỉ đạo, điều hành
  • Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
    • Văn bản chỉ đạo, điều hành
    • Kết quả triển khai
Phổ biến kiến thức
  • Danh mục thuật ngữ
  • Các nội dung phổ biến kiến thức cộng đồng
    • Tiền Việt Nam - những điều bạn nên biết
      • Phát hành và điều hòa tiền mặt
      • Tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông
      • Tiền đình chỉ lưu hành
      • Phân biệt tiền thật, tiền giả
      • Bảo vệ tiền Việt Nam
    • Các hoạt động thanh toán qua ngân hàng
      • Một số thông tin về thẻ ngân hàng
      • Những điều cần biết khi giao dịch qua ngân hàng điện tử
Tiếp cận thông tin
  • Danh mục thông tin công khai
  • Thông tin về đầu mối cung cấp thông tin cho công dân
  • Địa chỉ tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin qua mạng điện tử
  • Các mẫu phiếu sử dụng trong cung cấp thông tin
  • Hướng dẫn yêu cầu cung cấp thông tin
Search Bar
TIN VIDEO
Ngành Ngân hàng phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số”
Ngành Ngân hàng phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số”
TIN ẢNH
Album 1
Album 1
TIN ẢNH
Icon

Danh bạ liên hệ

Icon

Phản ánh kiến nghị

Icon

Đường dây nóng

Calendar Icon LỊCH LÀM VIỆC CỦA BAN LÃNH ĐẠO Microphone Icon CÁC BÀI PHÁT BIỂU Chart Icon CPI Percentage Icon LÃI SUẤT Money Icon DỰ TRỮ BẮT BUỘC Graduation Icon GIÁO DỤC TÀI CHÍNH Newspaper Icon THÔNG CÁO BÁO CHÍ ẤN PHẨM PHÁT HÀNH
Ngân hàng
ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2025-2030 Chuyển đổi số
Danh Bạ Liên Hệ Phản Ánh Kiến Nghị Đường Dây Nóng
© Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Địa chỉ: Số 49 Lý Thái Tổ - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Thường trực Ban biên tập: (84 - 243) 266.9435
Email: thuongtrucweb@sbv.gov.vn rss
NCSC Certification
Số điện thoại tổng đài Ngân hàng Nhà nước: (84 - 243) 936.6306
Đầu mối tiếp nhận thông tin về sự cố an toàn thông tin: số điện thoại: (+84)84.859.5983, email: antt@sbv.gov.vn
IPv6 Ready
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
SBV SBV-mob