1
Thực hiện yêu cầu tại Công văn số 1116/TTKQH-GS ngày 02/6/2022 của Tổng Thư ký Quốc hội về việc chuẩn bị báo cáo giải trình và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 3; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) xin trân trọng báo cáo Quốc hội như sau:
I. Vấn đề về tình hình triển khai và giải pháp đẩy nhanh việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; việc phối hợp chính sách tài khóa về kiểm soát lạm phát, củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô.
1. Tình hình thực hiện trong thời qua
1.1. Ngay sau khi Nghị quyết 43/2022/QH15 được ban hành, NHNN và hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) đã sớm vào cuộc, triển khai quyết liệt, kịp thời Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (KTXH), theo đó:
(1) Ban hành Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng triển khai Chương trình nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết 43/2022/QH15.
(2) Xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 về tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030, giai đoạn 1 từ năm 2021 đến năm 2025; Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN ngày 20/5/2022 về việc hướng dẫn ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP. Đồng thời, ngày 27/05/2022, NHNN đã tổ chức Hội nghị toàn ngành ngân hàng trên 63 tỉnh, thành phố để triển khai và tập huấn việc thực hiện Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư số 03/2022/TT-NHNN.
(3) Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) và hoạt động ngân hàng hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển KTXH, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối; điều hành tín dụng theo hướng tăng trưởng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
Kết quả cho thấy, kinh tế tăng trưởng trở lại, GDP Quý I/2022 tăng 5,03% so cùng kỳ năm 2021. Lạm phát bình quân năm 2021 được kiểm soát ở mức 1,84% - mức thấp nhất kể từ năm 2016, thấp hơn mục tiêu 4% của Quốc hội và Chính phủ đặt ra. 5 tháng đầu năm 2022, mặc dù lạm phát và giá cả hàng hóa thế giới liên tục leo thang, lạm phát trong nước tiếp tục được kiểm soát bình quân ở mức 2,25%, phù hợp với mục tiêu lạm phát.
(4) Tiếp tục cho vay tái cấp vốn Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) để cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất. Đến 31/3/2022 (thời điểm dừng giải ngân tái cấp vốn theo quy định), NHNN đã giải ngân cho NHCSXH tổng số tiền 4.787 tỷ đồng.
(5) Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN (đã sửa đổi, bổ sung). Đến 30/4/2022, lũy kế giá trị nợ đã cơ cấu từ khi ban hành Thông tư đạt hơn 695 nghìn tỷ đồng. Đồng thời, tiếp tục theo dõi sát tình hình, diễn biến của dịch bệnh để có giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống TCTD.
1.2. Phối hợp chặt chẽ giữa CSTT, tài khóa và chính sách quản lý giá thông qua các cuộc họp Ban chỉ đạo điều hành giá, trao đổi các thông tin về thị trường tiền tệ, tài chính để tăng cường sự phối hợp giữa các chính sách, theo dõi sát biến động thị trường để truyền thông chính sách, tạo lòng tin và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, ổn định thị trường.
2. Khó khăn, thách thức
- Áp lực lạm phát ngày càng tăng do lạm phát các nước trên thế giới tăng cao trong khi độ mở nền kinh tế Việt Nam rất lớn, rủi ro nhập khẩu lạm phát.
- Giá cả thế giới tăng cao trong khi sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu từ nước ngoài khiến chi phí sản xuất tăng trong năm 2021 và tiếp tục tăng cao hơn trong 5 tháng đầu năm 2022, gây áp lực lạm phát.
- Khả năng giảm lãi suất của hệ thống ngân hàng gặp nhiều khó khăn do lạm phát chịu áp lực tăng cao, xu hướng các ngân hàng trung ương lớn (như Cục dự trữ liên bang Mỹ) đẩy nhanh tiến trình thu hẹp nới lỏng CSTT, tăng nhanh tần suất và mức lãi suất để kiểm soát lạm phát.1
- Nợ xấu tiềm ẩn tăng cao, thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu biến động mạnh ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp và xu hướng đầu tư, theo đó tác động tới hoạt động ngân hàng.
3. Định hướng trong thời gian tới
- Bám sát chủ trương của Quốc hội và Chính phủ, NHNN tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế, thích ứng kịp thời với diễn biến thị trường trong và ngoài nước.
- Tiếp tục theo dõi sát diễn biến tiền tệ trong nước, quốc tế, dự báo lạm phát và lãi suất thị trường để điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT.
- Tích cực phối hợp bộ, ngành, địa phương trong tổ chức triển khai nhanh chóng, hiệu quả các chính sách cho vay theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP; Thường xuyên chủ động rà soát các khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các chính sách để có biện pháp xử lý hoặc báo cáo các cơ quan có thẩm quyền tháo gỡ.
- Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống các TCTD.
- Tiếp tục chỉ đạo TCTD: (i) Tăng trưởng tín dụng hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; tạo điều kiện tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, người dân, đơn giản hóa các thủ tục vay vốn; (ii) Tiếp tục tháo gỡ khó khăn về tín dụng, lãi suất đối với doanh nghiệp và người dân; (iii) Tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay; giảm phí đối với doanh nghiệp và người dân, đồng thời thực hiện nghiêm và thường xuyên giám sát, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về lãi suất, phí cho vay.
- Theo dõi, giám sát các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN (đã sửa đổi, bổ sung), đảm bảo lộ trình trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư số 03/2021/TT-NHNN.
- Ưu tiên triển khai tích cực các nhóm giải pháp nêu tại Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
II. Vấn đề về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại các TCTD, xử lý các NHTM yếu kém gắn với xử lý nợ xấu; cơ chế cấp hạn mức tín dụng hàng năm cho các NHTM; việc quản lý, về kiểm soát tín dụng trong lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, nhất là cho vay chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) và bất động sản (BĐS).
1. Về triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại các TCTD, xử lý các NHTM yếu kém
1.1. Tình hình thực hiện trong thời gian qua:
Thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, NHNN đã phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng và trình các cấp có thẩm quyền ban hành Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (ban hành theo Quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ - Đề án 1058). Sau 4 năm thực hiện, các mục tiêu tại Đề án 1058 đã cơ bản đạt được: quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng; năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành tiếp tục được củng cố, nâng cao; năng lực quản trị rủi ro được cải thiện, từng bước hình thành đồng bộ các chuẩn mực, thiết chế an toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Tiếp tục kế thừa những kết quả đạt được trên cơ sở tổng kết Đề án 1058, thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, NHNN đã xây dựng và đang trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025.
NHNN tiếp tục chỉ đạo, giám sát chặt chẽ các TCTD trong việc triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt; theo dõi, giám sát tình hình xử lý nợ xấu cũng như kiểm soát chất lượng tín dụng của từng TCTD để kịp thời cảnh báo, chấn chỉnh; kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc của các TCTD trong quá trình triển khai thực hiện phương án. Trong đó:
- Các NHTM nhà nước tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các TCTD2, tích cực tham gia hỗ trợ, xử lý các TCTD yếu kém và dành nguồn lực để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng vay gặp khó khăn do dịch Covid-19. Để nâng cao năng lực tài chính, NHNN đang phối hợp các bộ, ngành liên quan xem xét, trình cấp thẩm quyền phê duyệt phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận sau thuế, sau trích lập các quỹ giai đoạn 2021-2023 cho các NHTM cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ và từ nguồn ngân sách nhà nước đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Đối với các NHTM cổ phần, về cơ bản đều bám sát phương án được duyệt, tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện các mặt tài chính, quản trị, xử lý nợ xấu, tăng cường các biện pháp kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh3, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động.
- Đối với 03 NHTM mua bắt buộc và NHTM cổ phần Đông Á: NHNN thực hiện rà soát, xây dựng phương án xử lý, cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương. Trên cơ sở phê duyệt của cấp có thẩm quyền, NHNN đã và đang chỉ đạo các ngân hàng này khẩn trương hoàn thiện phương án cơ cấu lại, đồng thời tiếp tục phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
- Đối với hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND): NHNN tập trung chỉ đạo củng cố hoạt động của hệ thống QTDND và xử lý các QTDND yếu kém; định kỳ thực hiện đánh giá, xếp loại đối với hệ thống QTDND; chỉ đạo NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của các QTDND trên địa bàn. NHNN đã triển khai các giải pháp để tăng cường vai trò của các NHTM trong việc hỗ trợ các QTDND yếu kém; Ban hành Cẩm nang xử lý QTDND yếu kém, giúp NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nhận diện được những rủi ro tiềm ẩn, có hướng xử lý kịp thời để áp dụng can thiệp sớm hoặc kiểm soát đặc biệt.
1.2. Khó khăn, vướng mắc:
- Tái cơ cấu các TCTD là một vấn đề rất lớn mà ngành ngân hàng đang tập trung triển khai nhưng còn gặp rất nhiều khó khăn, hành lang pháp lý còn thiếu đồng bộ, nhất là trong việc xử lý các ngân hàng yếu kém, cần có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành để triển khai hiệu quả hơn.
- Vốn điều lệ của các NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% tăng chậm hơn rất nhiều so với khối NHTM cổ phần, ảnh hưởng đến vai trò và thị phần trong toàn hệ thống.
1.3. Định hướng trong thời gian tới:
- Tổ chức triển khai Đề án cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, trong đó:
+ Phát triển hệ thống các TCTD theo hướng các TCTD trong nước đóng vai trò chủ lực, hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch, đáp ứng các chuẩn mực về an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật và tiệm cận với thông lệ quốc tế, hướng tới đạt trình độ phát triển của Nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN.
+ Tập trung thực hiện phương án cơ cấu lại; khắc phục những hạn chế, phấn đấu xử lý cơ bản các khó khăn, tồn tại của ngân hàng yếu kém, xây dựng hệ thống các TCTD lành mạnh và phát triển bền vững.
+ Nâng cao năng lực tài chính của TCTD; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các TCTD có liên quan.
- Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của TCTD, đặc biệt là tập trung thanh tra chuyên đề đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
- Tiếp tục triển khai quy trình thủ tục để thực hiện tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận sau thuế, sau trích lập các quỹ giai đoạn 2021-2023 cho các NHTM cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ và từ nguồn ngân sách nhà nước đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
2. Về xử lý nợ xấu của các TCTD
2.1. Tình hình thực hiện trong thời gian qua:
- Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống KTXH, để tăng cường công tác kiểm soát và xử lý nợ xấu, NHNN đã tổ chức làm việc với các TCTD về kế hoạch xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2022. Theo đó, chỉ đạo các TCTD thực hiện một số giải pháp chính như tăng cường kiểm soát, xử lý nợ xấu và hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; khuyến khích TCTD trả cổ tức bằng cổ phiếu, hạn chế thực hiện chia cổ tức bằng tiền mặt để nâng cao năng lực tài chính và khả năng chống đỡ trước ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh; khuyến khích trích lập tối đa số tiền dự phòng cụ thể đối với dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi, phí theo quy định tại Thông tư 01/2020/TT-NHNN...
Trong quá trình triển khai cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu, các TCTD đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, sử dụng dự phòng rủi ro. Từ năm 2021 đến nay, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 216,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong 4 tháng đầu 2022, tổng số dư nợ xấu được xử lý đạt 54,8 nghìn tỷ đồng, phần lớn là khách hàng trả nợ (23,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,0% tổng nợ xấu được xử lý); sử dụng dự phòng rủi ro (14,2 nghìn tỷ đồng, 25,9%) và bán nợ cho VAMC (11,4 nghìn tỷ đồng, 20,9%).
Liên quan đến công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/08/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 424, đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn nhiều so với kết quả xử lý nợ xấu tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012 – 2017, hệ thống các TCTD xử lý được khoảng 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng); xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 chủ yếu thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 148 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,9% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý (trung bình từ 2012-2017 chỉ khoảng 22,8%). Trong đó, riêng năm 2021, đã xử lý được 48,3 nghìn tỷ đồng.
2.2. Khó khăn, vướng mắc:
- Nguy cơ nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh; doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí và giữ nguyên nhóm nợ trước mắt là hết sức cần thiết nhằm giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp và người dân nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu gia tăng và rủi ro thanh khoản trong trung hạn. Việc cung ứng vốn cho nền kinh tế (đặc biệt vốn trung, dài hạn) vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng trong khi nguồn vốn ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, làm gia tăng rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản cho hệ thống TCTD.
- Việc bán, phát mại tài sản để xử lý nợ xấu của các TCTD gặp nhiều khó khăn do thị trường thanh lý tài sản đảm bảo bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế chưa phục hồi sau đại dịch. Bên cạnh đó, có những khách hàng lợi dụng bối cảnh dịch bệnh để trì hoãn trả nợ, giao tài sản đảm bảo cho các TCTD khiến tiến trình xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm càng gặp nhiều khó khăn.
2.3. Định hướng trong thời gian tới:
- Tiếp tục chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu, thực hiện quyết liệt các biện pháp để thu hồi nợ, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh.
- Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo cơ sở để đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu hiệu quả.
- Phối hợp với các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quy định tại Nghị quyết 42 trên thực tế sau khi được Quốc hội thông qua gia hạn thời gian áp dụng Nghị quyết.
3. Vấn đề về cơ chế cấp hạn mức tín dụng hàng năm cho các NHTM
3.1. Về điều hành tín dụng của NHNN trong thời gian qua:
- Căn cứ mục tiêu kinh tế - xã hội về tăng trưởng GDP, lạm phát được Quốc hội và Chính phủ đề ra, hằng năm NHNN xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng cho cả năm của cả hệ thống TCTD; đồng thời, có điều chỉnh phù hợp với nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, bảo đảm cung cấp vốn cho phát triển kinh tế nhưng cũng thận trọng với rủi ro lạm phát và rủi ro nợ xấu phát sinh. Theo đó, NHNN đã thực hiện đồng bộ các giải pháp:
(i) Xác định và thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD trên cơ sở tình hình hoạt động, năng lực tài chính, quản trị điều hành và khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh của từng TCTD.
(ii) Chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như đầu tư, kinh doanh bất động sản, chứng khoán, các dự án BOT, BT giao thông, trái phiếu doanh nghiệp.
(iii) Nhằm tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng, đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, góp phần hạn chế “tín dụng đen”, ngành ngân hàng đã quyết liệt triển khai nhiều giải pháp như đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến; mở rộng mạng lưới, đa dạng sản phẩm dịch vụ, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và mọi tầng lớp dân cư.
Tín dụng những tháng đầu năm 2022 tăng phù hợp với diễn biến phục hồi của nền kinh tế và tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đến ngày 31/5/2022, tín dụng tăng 8,04% so với cuối năm 2021 và tăng 16,94% so với cùng kỳ năm 2021; 4/5 lĩnh vực ưu tiên có mức tăng cao hơn cùng kỳ và 3/5 lĩnh vực ưu tiên có mức tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung; tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát.
- Việc thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD được thực hiện theo nguyên tắc, TCTD có tình hình hoạt động an toàn, lành mạnh hơn sẽ được NHNN xem xét phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn, qua đó, thúc đẩy TCTD nâng cao năng lực quản trị, điều hành, tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động và các chỉ số an toàn hoạt động. Bên cạnh đó, NHNN cũng xem xét một số yếu tố như mặt bằng lãi suất huy động, cho vay, tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn... đảm bảo thực hiện đúng chủ trương của Chính phủ và NHNN về tập trung tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
2.2. Khó khăn, vướng mắc:
Năm 2022, sức ép tăng trưởng tín dụng lớn do cộng hưởng nhiều yếu tố: đầu tư công giải ngân vẫn còn chậm khiến nguồn vốn phục hồi kinh tế phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng; việc triển khai gói hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng trong năm 2022-2023 trong bối cảnh áp lực lạm phát ngày càng tăng và tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao khiến công tác điều hành tín dụng gặp nhiều thách thức.
2.3. Định hướng trong thời gian tới:
Với áp lực lạm phát thời gian tới khá lớn, NHNN sẽ theo sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong và ngoài nước để điều hành phù hợp. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống. Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và tình hình thị trường để có giải pháp điều hành phù hợp.
4. Việc quản lý, kiểm soát tín dụng trong lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, nhất là cho vay chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) và bất động sản (BĐS).
4.1. Về quản lý, kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực chứng khoán, phát hành TPDN
a. Tình hình cho vay của các TCTD trong thời gian qua:
- Đến tháng 4/2022, tín dụng để đầu tư, kinh doanh chứng khoán chiếm khoảng 0,5% tổng dư nợ nền kinh tế, dư nợ chủ yếu là ngắn hạn (chiếm 98%); tập trung phần lớn vào dư nợ để đầu tư trái phiếu Chính phủ.
- Tổng số dư đầu tư TPDN của các TCTD đến cuối tháng 4/2022 là 320,4 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng dư nợ tín dụng (2,86%) cho thấy hoạt động đầu tư TPDN của các TCTD vẫn được kiểm soát.
b. Giải pháp kiểm soát của NHNN:
Nhằm kiểm soát rủi ro liên quan đến chứng khoán và TPDN, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống TCTD, NHNN thực hiện một số giải pháp, cụ thể:
- Từng bước hoàn thiện khung khổ pháp lý với các quy định theo hướng chặt chẽ hơn nhằm kiểm soát rủi ro trong hoạt động đầu tư trái phiếu của TCTD, đảm bảo an toàn hệ thống. Theo đó, khi phát hành trái phiếu, TCTD phải tuân thủ các quy định tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán như đối với các doanh nghiệp khác; đồng thời phải tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình cấp tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán và đầu tư TPDN của các TCTD nhằm kịp thời phát hiện những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro để có các biện pháp xử lý phù hợp.
- Chỉ đạo các TCTD rà soát, đánh giá lại hoạt động cấp tín dụng, tăng cường các biện pháp quản lý rủi ro, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với các hoạt động cấp tín dụng, trong đó có hoạt động cấp tín dụng đối với các Tập đoàn kinh tế tư nhân, Tập đoàn bất động sản lớn và người có liên quan để quản lý chặt chẽ, hạn chế phát sinh các rủi ro liên quan5.
c. Khó khăn, vướng mắc:
Các rủi ro từ thị trường chứng khoán, TPDN phần lớn phát sinh từ hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu (thuộc phạm vi quản lý của các Bộ, ngành khác). Việc thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng liên quan đến các lĩnh vực này chỉ là biện pháp quản lý rủi ro từ phía ngân hàng. Do đó, cần có những biện pháp toàn diện, mang tính đồng bộ với sự phối hợp giữa các Bộ, ngành có liên quan để làm trong sạch, lành mạnh hóa, củng cố thị trường chứng khoán cũng như thị trường TPDN.
d. Định hướng trong thời gian tới:
- Tiếp tục nghiên cứu chỉnh sửa các quy định về mua, bán TPDN của TCTD, nâng cao yêu cầu, chuẩn mực quản trị của TCTD khi tham gia vào thị trường TPDN nhằm góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, đồng thời hỗ trợ thị trường TPDN phát triển bền vững.
- Tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động đầu tư TPDN, có các biện pháp ngăn ngừa, phát hiện kịp thời các rủi ro, vi phạm phát sinh, đồng thời thường xuyên cảnh báo, chấn chỉnh TCTD đối với hoạt động này.
- Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành đẩy mạnh việc thực hiện các giải pháp cơ cấu lại và phát triển bền vững các phân đoạn thị trường tài chính, trong đó có thị trường TPDN để thúc đẩy thị trường TPDN trở thành một kênh huy động vốn trung, dài hạn chính của nền kinh tế.
3.2. Về quản lý, kiểm soát đối với lĩnh vực BĐS
a. Tình hình cho vay của các TCTD trong thời gian qua:
- Đến cuối tháng 04/2022, tổng dư nợ đối với lĩnh vực BĐS của các TCTD đạt 2.288.278 tỷ đồng, tăng 10,19% so với cuối năm 2021, chiếm tỷ trọng 20,44% trong tổng dư nợ đối với nền kinh tế, tỷ lệ nợ xấu là 1,62%.
b. Giải pháp kiểm soát của NHNN:
NHNN đánh giá lĩnh vực đầu tư kinh doanh BĐS là một trong các lĩnh vực rủi ro đối với hoạt động ngân hàng, cần có các giải pháp kiểm soát. Các giải pháp NHNN đã và đang thực hiện bao gồm:
- Hoàn thiện hành lang pháp lý thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
- Giám sát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng dư nợ và chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán và BĐS để kịp thời phát hiện dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro và có biện pháp xử lý phù hợp, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống các TCTD.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chú trọng, tập trung kiểm tra các hồ sơ cấp tín dụng lĩnh vực BĐS của các TCTD. Từ đó phát hiện các vấn đề, tồn tại, vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng để kịp thời xử lý vi phạm, đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị cụ thể hạn chế rủi ro của các TCTD trong hoạt động cấp tín dụng nói chung và trong lĩnh vực BĐS nói riêng.
c. Khó khăn, vướng mắc:
- Thị trường BĐS biến động mạnh; tình trạng thổi giá gây sốt ảo bất động sản, tình trạng đấu giá đất với giá cao bất thường... ảnh hưởng đến việc cấp tín dụng, định giá tài sản đảm bảo của TCTD.
- Mặc dù tình hình cấp tín dụng cũng như chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực BĐS vẫn đang được NHNN kiểm soát ổn định nhưng để hạn chế tác động của thị trường BĐS đối với kinh tế vĩ mô, tiền tệ, cần có các giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ với sự phối hợp của các bộ, ban, ngành có liên quan để lành mạnh hóa, xây dựng thị trường BĐS an toàn, bền vững.
- Hiện nay khoảng 94% dư nợ tín dụng BĐS là cho vay trung và dài hạn (từ 10 - 25 năm), trong khi nguồn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn. Chênh lệch kỳ hạn và lãi suất giữa nguồn vốn và cho vay đối với lĩnh vực này là rủi ro lớn đối với các ngân hàng.
d. Định hướng trong thời gian tới:
- Tiếp tục chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro trong đó có đầu tư, kinh doanh BĐS, đồng thời, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiếp cận nguồn vốn tín dụng để mua, đầu tư nhà ở tự sử dụng, tiêu dùng, đặc biệt là nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, nhà ở thương mại giá rẻ.
- Tiếp tục rà soát và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để hoàn thiện các quy định pháp lý nhằm hỗ trợ thị trường BĐS phát triển bền vững đồng thời kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống TCTD.
- Tăng cường thanh tra, giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực BĐS để kịp thời đưa ra giải pháp nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD, có các biện pháp ngăn ngừa, phát hiện kịp thời rủi ro, vi phạm phát sinh.
III. Vấn đề về thực trạng và giải pháp phòng, chống tín dụng đen, tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.
1. Thực trạng và giải pháp phòng, chống tín dụng đen
1.1. Tình hình thực hiện thời gian qua:
Thực hiện vai trò là cơ quan phối hợp trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”, thực hiện Chỉ thị 12/CT-TTg ngày 25/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN (là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng) đã ban hành Kế hoạch hành động6 và chủ động triển khai các giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp khi vay vốn TCTD, qua đó góp phần hạn chế, đẩy lùi “tín dụng đen. Cụ thể:
- Hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động cho vay, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến.
- Điều hành tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp và người dân. Chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng; triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng; đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn; nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng để tăng cường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản;...
Đến ngày 31/5/2022, tín dụng tăng 8,04% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (là nơi dễ phát sinh hoạt động “tín dụng đen”) đạt gần 2,8 triệu tỷ đồng với hơn 14 triệu khách hàng, chiếm gần 25% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Các TCTD cũng đẩy mạnh cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, cho vay tiêu dùng với dư nợ đạt trên 2,26 triệu tỷ đồng, chiếm trên 20% dư nợ nền kinh tế.
- Tạo điều kiện phát triển mạng lưới nhằm gia tăng khả năng tiếp cận đến người dân, đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Đến nay, toàn hệ thống đã có 124 TCTD và gần 1.200 Quỹ TDND; 16 công ty tài chính được cấp phép hoạt động với 17 chi nhánh, 41 văn phòng đại diện và 74.337 điểm giới thiệu dịch vụ trên toàn quốc; 04 tổ chức tài chính vi mô được cấp phép hoạt động với 64 chi nhánh và 59 phòng giao dịch thuộc 24 tỉnh, thành phố.
- Đối với các đối tượng chính sách, người nghèo, người không có tài sản bảo đảm, người lao động có thu nhập thấp: NHCSXH đang triển khai nhiều chương trình tín dụng chính sách để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng chính đáng với lãi suất ưu đãi7 và không cần tài sản bảo đảm8. Bên cạnh đó, người nghèo, người không có tài sản bảo đảm, người lao động thu nhập thấp, không thể chứng minh được tài sản bảo đảm còn có thể tiếp cận các khoản vay của công ty tài chính tiêu dùng9, tổ chức tài chính vi mô10, quỹ tín dụng nhân dân.
- Tăng cường hoạt động truyền thông về cơ chế, chính sách cho vay, dịch vụ ngân hàng đến đông đảo người dân; cảnh báo các hệ lụy để người dân phòng, tránh “tín dụng đen”; xây dựng các chương trình truyền hình về giáo dục tài chính giúp người dân có đầy đủ kiến thức cần thiết, dễ dàng tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng chính thức.
1.2. Định hướng trong thời gian tới:
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các văn bản quy định về hoạt động cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, cho vay tiêu dùng; quy định về tín dụng ngành, lĩnh vực nhằm tiếp tục tăng khả năng tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp.
- Khuyến khích các TCTD phát triển mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm tăng cường khả năng cung ứng tín dụng, dịch vụ ngân hàng chính thức.
- Chỉ đạo TCTD tập trung nguồn vốn, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, nhu cầu đời sống, tiêu dùng chính đáng của người dân của người dân, doanh nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ cho vay, thanh toán trực tuyến, gắn với cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình, thủ tục vay vốn để tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức với lãi suất phù hợp.
- Triển khai đồng bộ các giải pháp, nhiệm vụ được giao của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển KTXH và Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
- Đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, triển khai giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện, chuyển đổi số ngành ngân hàng, tạo điều kiện cho các TCTD phát triển các sản phẩm cho vay phục vụ đời sống, tín dụng tiêu dùng an toàn, hiệu quả.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; chỉ đạo các công ty tài chính tiêu dùng tiếp tục tập trung chấn chỉnh lại hoạt động cho vay, có chính sách lãi suất phù hợp, thu nợ minh bạch, đúng quy định pháp luật.
- Tăng cường công tác truyền thông về các cơ chế, chính sách tín dụng ngân hàng đến mọi tầng lớp nhân dân, giúp người dân, doanh nghiệp hiểu về tín dụng từ các kênh cung cấp tín dụng chính thức, góp phần chuyển tải vốn tín dụng ngân hàng đến người dân một cách hiệu quả nhất.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các TCTD, chỉ đạo hệ thống ngân hàng quản lý cán bộ, nhân viên chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, không tham gia các hoạt động liên quan đến “tín dụng đen”.
- Bên cạnh nỗ lực của ngành ngân hàng, để hạn chế hoạt động “tín dụng đen” cần có sự triển khai quyết liệt, đồng bộ của các Bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó: (i) Tiếp tục triển khai quyết liệt các nhiệm vụ trọng tâm đã được phân công trong Chỉ thị số 12/CT-TTg; (ii) Tuyên truyền các kênh vay vốn chính thống; (iii) Đẩy mạnh công tác phát hiện, xác minh, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm liên quan đến hoạt động tín dụng đen; (iv) Tạo điều kiện cho các TCTD, công ty tài chính chính thức được kết nối với cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia giúp giảm chi phí cho vay, giảm thời gian thẩm định, quyết định cho vay; (v) Sớm có giải pháp giải quyết tình trạng các đối tượng sử dụng tin nhắn giả mạo, số thuê bao điện thoại không chính chủ, tạo lập website, ứng dụng điện thoại, tài khoản mạng xã hội không khai báo, đăng ký chính danh để thực hiện hành vi phạm pháp luật nhằm trốn tránh sự điều tra, phát hiện, xử lý của cơ quan chức năng.
2. Công tác phòng, chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
2.1. Tình hình tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:
Theo báo cáo thống kê của Bộ Công an và Bộ Thông tin Truyền thông, ngành ngân hàng thuộc nhóm phải chịu số lượng lớn các cuộc tấn công từ tội phạm mạng. Đặc biệt giai đoạn 2019- 2020, có khoảng 4.000 vụ tấn công an ninh mạng có chủ đích, sử dụng nhiều thủ đoạn như giả mạo website ngân hàng, đánh cắp tài khoản nhằm chiếm đoạt tiền và cũng đã có ngân hàng bị tấn công xâm nhập hệ thống.
Trước những thách thức đó, NHNN đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn ngành chú trọng đầu tư cho an toàn thông tin (ATTT) và triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phòng chống tấn công mạng. Nhờ đó, các hệ thống thông tin trong ngành ngân hàng luôn được đảm bảo an toàn, hoạt động liên tục, đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không tấn công được các hệ thống thông tin của ngân hàng, tội phạm đã gia tăng tấn công vào đối tượng dễ bị tổn thương hơn là khách hàng của ngân hàng bằng phương thức, thủ đoạn tấn công lừa đảo qua các tin nhắn, website giả mạo (Phishing) để đánh cắp tiền.
Bên cạnh đó, tại Việt Nam đã có trường hợp làm giả các hồ sơ, giấy tờ để giao dịch với ngân hàng; thuê người hoặc sử dụng giấy tờ giả mở tài khoản để nhận, chuyển tiền lừa đảo, cá độ trực tuyến,… thông qua các dịch vụ Internet Banking, Mobile Banking,...
2.2. Các giải pháp phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng:
a. Nghiên cứu, ban hành khung pháp lý về ATTT:
Trước tình hình ATTT tại Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp, năm 2021, Thống đốc NHNN đã ban hành một Chỉ thị riêng về tăng cường công tác bảo vệ an ninh mạng trong tình hình hiện nay (Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/6/2021); đầu năm 2022, Thống đốc NHNN tiếp tục có Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 21/01/2022 đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng, trong đó tập trung chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm:
- Tiếp tục rà soát, kiện toàn phương án bảo vệ an ninh mạng cho các hệ thống thông tin quan trọng; Xây dựng nguồn nhân lực an ninh mạng đáp ứng yêu cầu quản lý.
- Làm tốt công tác truyền thông về chính sách, pháp luật, kiến thức, kỹ năng sử dụng dịch vụ ngân hàng an toàn trên không gian mạng và các phương thức, thủ đoạn lừa đảo của tội phạm công nghệ cao nhằm chiếm đoạt tài sản qua các kênh giao dịch ngân hàng điện tử.
- Triển khai các giải pháp giám sát, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các giao dịch đáng ngờ qua hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử, đặc biệt giao dịch liên quan đến người cao tuổi. Rà soát, hoàn thiện các biện pháp xác thực, định danh khách hàng điện tử, bảo đảm xác định chính xác khách hàng. Thực hiện chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip nhằm đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử, thanh toán thẻ.
- Triển khai tổng thể các giải pháp phòng, chống lộ lọt thông tin, dữ liệu mật, nhạy cảm, trong đó có thông tin khách hàng của ngân hàng qua các hệ thống thông tin.
- Tổ chức tốt việc phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Công an trong việc điều tra, xử lý, đấu tranh với tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng.
b. Tổ chức thanh tra, kiểm tra tuân thủ về ATTT: Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành, hàng năm, NHNN đều tổ chức các đoàn kiểm tra các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán về tuân thủ các quy định ATTT và kiểm tra đột xuất theo các chuyên đề về rủi ro công nghệ phát sinh trong từng giai đoạn (trung bình khoảng 10 TCTD/năm). Thông qua công tác kiểm tra, NHNN đã phát hiện, kiến nghị và chấn chỉnh kịp thời những tồn tại, hạn chế, rủi ro về an ninh, bảo mật công nghệ thông tin và tiếp nhận các vướng mắc, kịp thời điều chỉnh, cập nhật các chính sách chỉ đạo, điều hành về công nghệ thông tin.
c. Xây dựng và tổ chức hiệu quả hoạt động của Mạng lưới ứng cứu sự cố; ATTT ngành ngân hàng. Ban hành Hướng dẫn xử lý khủng hoảng khi xảy ra sự cố an toàn thông tin mạng để nâng cao năng lực chung của toàn Ngành về khả năng ứng phó, sẵn sàng xử lý các sự cố an ninh mạng, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro mất an toàn thông tin. Đồng thời, hàng năm, tổ chức 1-2 đợt diễn tập, cuộc thi về điều tra, xử lý, ứng cứu sự cố ATTT để nâng cao năng lực, trình độ và kinh nghiệm xử lý sự cố ATTT cho các đơn vị trong Ngành.
d. Phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác ATTT: Ngành ngân hàng đã làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng trong bảo đảm ATTT của ngành ngân hàng trên không gian mạng, như: Phối hợp thực hiện kiểm tra, đánh giá ATTT tại các TCTD; thiết lập kênh trao đổi thông tin nhanh để xử lý các website giả mạo các trang web Internet Banking của các ngân hàng Việt Nam; đào tạo, tập huấn, diễn tập ứng cứu sự cố ATTT cho Mạng lưới ứng cứu sự cố ATTT ngành Ngân hàng; triển khai kết nối với hệ thống định danh và xác thực điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; triển khai thí điểm sử dụng giải pháp xác thực khách hàng qua thẻ căn cước công dân gắn chip (Match on Card -MoC) trên nền tảng công nghệ sinh trắc học để định danh, xác thực điện tử khách hàng trong các giao dịch mở tài khoản, rút tiền tại ATM và một số dịch vụ ngân hàng điện tử.
2.3. Kết quả đạt được:
- Về phía NHNN, năm 2020, NHNN là cơ quan cấp Bộ duy nhất (cùng 3 Tỉnh/Thành phố) được xếp hạng A về ATTT theo đánh giá của Bộ Thông tin Truyền thông và tiếp tục được xếp hạng A trong năm 2021.
- Về phía các TCTD, các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ được đảm bảo an toàn, hoạt động liên tục, phục vụ nhu cầu của người dân, doanh nghiệp và được Bộ Thông tin Truyền thông đánh giá xếp hạng cao nhất trong các ngành về mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin và bảo đảm ATTT.
2.4. Định hướng trong thời gian tới:
- NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD nghiên cứu, triển khai áp dụng các giải pháp kỹ thuật để tăng cường công tác đảm bảo ATTT cho các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng.
- Tăng cường triển khai các giải pháp đang thực hiện, đặc biệt công tác quản lý, giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử và công tác phối hợp với cơ quan bảo vệ pháp luật để phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm liên quan.
- Phối hợp với Bộ Công an triển khai mở rộng cho phép các ngân hàng kết nối, khai thác thông tin Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và khai thác thông tin trên thẻ căn cước công dân gắn chíp để phục vụ xác minh chính xác thông tin nhận biết khách hàng, hạn chế hành vi gian lận, mạo danh, làm giả giấy tờ tùy thân khi thực hiện các giao dịch ngân hàng điện tử.
Trên đây là Báo cáo một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin trân trọng báo cáo Quốc hội./.
Nơi nhận: - Như trên; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để b/c); - Thường trực Chính phủ (để b/c); - Tổng Thư ký Quốc hội; - Thủ tướng Chính phủ, các PTTg (để b/c); - VPCP: TKBT, KTTH, QHĐP; - Ban lãnh đạo NHNN; - Các đơn vị: CQTTGSNH, CSTT, TDCNKT, Cục CNTT; - Lưu: VP, VP1M.T.Hương |
THỐNG ĐỐC
(Đã ký)
Nguyễn Thị Hồng |
1 Đến ngày 31/5/2022, có tổng cộng 134 lượt tăng lãi suất và chỉ có 04 lượt hạ lãi suất trên toàn cầu; riêng Fed đã tăng tốc điều chỉnh lãi suất Fed Fund thêm 0,5% trong tháng 5 sau khi tăng 0,25% trong tháng 3 (hiện ở mức 0,75-1%/năm), ECB phát tín hiệu dừng QE vào QIII/2022 và có thể tăng lãi suất từ tháng 7.
2 Đến cuối tháng 3/2022, vốn điều lệ của các NHTM nhà nước (Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV) đạt 170 nghìn tỷ đồng, không thay đổi so với cuối năm 2021; tổng tài sản đạt 6.719,44 nghìn tỷ đồng, tăng 5,17% so với cuối năm 2021; vốn huy động thị trường 1 đạt 5.625,25 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9% so với cuối năm 2021.
3 Đến cuối tháng 3/2022, vốn điều lệ của các NHTM cổ phần đạt 400,23 nghìn tỷ đồng, tăng 1,69% so với cuối năm 2021; tổng tài sản đạt 7.372,5 nghìn tỷ đồng, tăng 3,08% so với cuối năm 2021; vốn huy động thị trường 1 đạt 215.396,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% so với cuối năm 2021.
4 Chủ yếu (i) Xử lý nợ xấu nội bảng (không bao gồm xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt (TPĐB)(chiếm 51,4% tổng nợ xấu đã xử lý); (ii) Xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 (chiếm 27,3% tổng nợ xấu đã xử lý); (iii) Xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng TPĐB (chiếm 21,0%).
5 Công văn số 261, 262/NHNN-TTGSNH ngày 18/4/2022.
6 Quyết định 1178/QĐ-NHNN ngày 31/5/2019 ban hành Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng triển khai Chỉ thị 12/CT-TTg ngày 25/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.
7 Chỉ từ 3,3%-6,6%, thấp hơn so với lãi suất cho vay thương mại của các NHTM, công ty tài chính.
8 Đến cuối tháng 4/2022 dư nợ đạt 262.917 tỷ đồng, tăng 6,03% so với 31/12/2021, với gần 6,4 triệu khách hàng còn dư nợ.
9 Công ty tài chính cho vay đối với khách hàng chưa hoặc khó tiếp cận được dịch vụ ngân hàng, lịch sử tín dụng hạn chế, mức thu nhập trung bình hoặc thấp, kém ổn định, không có tài sản bảo đảm có nhu cầu vay món nhỏ, thời gian ngắn, mục đích vay phục vụ nhu cầu đời sống.
10 Tính đến 31/3/2022, các tổ chức tài chính vi mô cho vay khách hàng tài chính vi mô chiếm 94,5% tổng dư nợ, các khoản cho vay này đều không yêu cầu tài sản bảo đảm, các thủ tục, chính sách cho vay của tổ chức TCVM đã được thiết kế phù hợp với đặc thù của nhóm đối tượng này.