1
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM *** Số: 330/BC-NHNN
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ****************** Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2022 |
BÁO CÁO
VỀ VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 62/2022/QH15
VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN VÀ NGHỊ QUYẾT SỐ 63/2022/QH15
VỀ KỲ HỌP THỨ 3 QUỐC HỘI KHÓA XV
(Lĩnh vực Ngân hàng)
Kính gửi:
- Quốc hội;
- Các vị đại biểu Quốc hội.
A. THÔNG TIN CHUNG
Thực hiện Nghị quyết số 62/2022/QH15 về hoạt động chất vấn, Nghị quyết số 63/2022/QH15 về Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động nghiên cứu, rà soát và khẩn trương triển khai những nội dung có liên quan đến hoạt động của ngành Ngân hàng.
Ngày 9/8/2022, NHNN đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 62/2022/QH15 của Quốc hội để chỉ đạo các đơn vị trong toàn ngành Ngân hàng tập trung triển khai nghiêm túc, có hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết của Quốc hội. Bên cạnh đó, định kỳ hàng tháng, NHNN đã có báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 62/2022/QH15 và Nghị quyết số 63/2022/QH15 theo yêu cầu của Văn phòng Chính phủ tại văn bản số 583/TTg-QHĐP ngày 11/7/2022.
Trong nhiệm kỳ, Thống đốc đã tham gia trả lời 47 câu hỏi chất vấn trực tiếp của 32 Đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV; đồng thời đã có văn bản trả lời đầy đủ, kịp thời và đảm bảo chất lượng 22 nội dung Đại biểu Quốc hội quan tâm chất vấn tại 14 phiếu chất vấn gửi tới Thống đốc.
Đến nay, về cơ bản NHNN đang triển khai đúng tiến độ các nhiệm vụ được giao tại các Nghị quyết của Quốc hội và các cam kết đã phát biểu tại phiên chất vấn của kỳ họp.
B. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
I. Nhóm nhiệm vụ liên quan đến: Tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng trong đó có các luật như: Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Phòng, chống rửa tiền và các văn bản liên quan, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu để áp dụng khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 hết hiệu lực thi hành. Rà soát, sửa đổi các quy định về việc các TCTD chào bán, đầu tư và cung cấp dịch vụ về trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả, hạn chế rủi ro.
1. Luật Phòng, chống rửa tiền (Luật PCRT) (sửa đổi): Thực hiện Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2022 của Quốc hội, ngày 3/8/2022, Thống đốc NHNN thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thẩm tra dự án Luật. Ngày 18/8/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận, xem xét, cho ý kiến đối với dự án Luật. Ngày 07/9/2022, hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách họp cho ý kiến về dự thảo Luật. Trên cơ sở ý kiến của Đại biểu Quốc hội tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội chuyên trách, NHNN đã hoàn thiện hồ sơ dự án Luật trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để gửi tài liệu phục vụ cuộc họp thẩm tra toàn thể của Ủy ban Kinh tế. Ngày 30/9/2022, Ủy ban Kinh tế đã tổ chức họp phiên toàn thể cho ý kiến đối với dự án Luật. Dự kiến dự án Luật sẽ được trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp tháng 10/2022.
2. Luật bảo hiểm tiền gửi (Luật BHTG): NHNN đã có Quyết định số 127/QĐ-NHNN ngày 28/01/2022 về ban hành Kế hoạch nghiên cứu, rà soát, lập đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Bảo hiểm tiền gửi. NHNN đã gửi công văn đề nghị các đơn vị, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện tổng kết thi hành Luật BHTG. Trên cơ sở đó, NHNN đã xây dựng dự thảo Báo cáo tổng kết thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi. Hiện nay, NHNN đã xây dựng, hoàn thiện Báo cáo kết quả nghiên cứu, rà soát, đề xuất chính sách sửa đổi, bổ sung Luật để báo cáo Chính phủ, trong đó, NHNN đề xuất cho phép kéo dài thời gian nghiên cứu, rà soát sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật bảo hiểm tiền gửi sang năm 2023 và thực hiện việc lập hồ sơ đề nghị xây dựng luật trình Chính phủ trình Quốc hội bổ sung vào Chương trình xây dựng Luật năm 2024 (trong trường hợp cần thiết ban hành).
3. Luật Ngân hàng Nhà nước (Luật NHNN): NHNN đã có Quyết định số 2160/QĐ-NHNN ngày 31/12/2021 ban hành Kế hoạch nghiên cứu, rà soát Luật NHNN. Hiện nay, NHNN đã xây dựng, hoàn thiện Báo cáo kết quả nghiên cứu, rà soát, đề xuất chính sách sửa đổi, bổ sung Luật để báo cáo Chính phủ, trong đó, NHNN đề xuất cho phép kéo dài thời gian nghiên cứu, rà soát sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật NHNN sang năm 2023 và thực hiện việc lập hồ sơ đề nghị xây dựng luật trình Chính phủ trình Quốc hội bổ sung vào Chương trình xây dựng Luật năm 2024 (trong trường hợp cần thiết ban hành).
4. Luật Các TCTD sửa đổi: Ngày 29/4/2022, NHNN đã ban hành Kế hoạch nghiên cứu, rà soát, tổng kết, hoàn thiện Luật các TCTD 2010 và Luật số 17/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD năm 2010 (Quyết định số 767/QĐ-NHNN). Hiện, NHNN đang tập trung hoàn thiện các nội dung liên quan theo kế hoạch.
5. Về luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu trong Luật Các TCTD: Hiện, NHNN đang nghiên cứu các quy định về xử lý nợ xấu cần luật hóa trong Luật Các TCTD để đề xuất cụ thể.
6. Về các Nghị định trình Chính phủ: NHNN đã nghiên cứu, hoàn thiện trình Chính phủ ban hành (i) Nghị định thay thế Nghị định 101/2021/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt; (ii) Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng.
7. Rà soát, sửa đổi các quy định về việc các TCTD chào bán, đầu tư và cung cấp dịch vụ về trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) riêng lẻ, bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả, hạn chế rủi ro.
- Nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động mua, bán TPDN của TCTD, NHNN đã ban hành Thông tư 16/2021/TT-NHNN ngày 10/11/2021 quy định về hoạt động mua, bán TPDN của TCTD; trong đó bổ sung các quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ hoạt động mua, bán TPDN của TCTD phát triển lành mạnh, bền vững; qua đó quản lý các hoạt động này thống nhất với hoạt động cấp tín dụng1.
Hiện NHNN đang tiếp tục bám sát Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; kết quả công tác thanh tra hoạt động mua, bán TPDN của NHNN và diễn biến thị trường (thông qua các báo cáo của Bộ Tài chính, Bộ Công an…) để nghiên cứu, rà soát tổng thể các vấn đề, nội dung cần bổ sung, chỉnh sửa tại Thông tư 16/2021/TT-NHNN (nếu cần) nhằm đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật và góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD.
- Ngày 31/12/2021, Thống đốc đã ban hành Thông tư số 28/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 bổ sung nội dung NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện hoạt động đại lý phát hành TPDN tại thị trường trong nước theo quy định của Luật Chứng khoán nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và để đảm bảo chặt chẽ, phản ánh đúng bản chất của hoạt động đại lý là hoạt động cung ứng dịch vụ để hưởng phí; bổ sung quy định trường hợp NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện hoạt động đại lý phát hành TPDN tại thị trường trong nước cam kết với nhà đầu tư về việc mua lại TPDN thì phải ký hợp đồng với nhà đầu tư (trong đó nêu rõ điều kiện, điều khoản về việc mua lại trái phiếu) và phải tuân thủ quy định của NHNN về việc TCTD mua, bán TPDN và các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng khi thực hiện các cam kết này.
8. Ngoài ra, từ đầu năm đến nay, NHNN cũng đã ban hành 11 thông tư hướng dẫn liên quan đến chính sách tiền tệ (CSTT), tín dụng, ngoại hối và công tác thanh tra, giám sát ngân hàng,… tạo hành lang pháp lý để NHNN điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả.
II. Nhóm nhiệm vụ liên quan đến: Điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT, phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thích ứng kịp thời với diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế. Chỉ đạo các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí, phấn đấu hạ lãi suất cho vay theo Nghị quyết số 43/2022/QH15. Quản lý thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng.
1. Điều tiết tiền tệ nhằm góp phần hỗ trợ ổn định tỷ giá và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu trước diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và căng thẳng địa chính trị. Theo đó, trong những tháng đầu năm để hỗ trợ phục hồi kinh tế, NHNN thực hiện chào mua giấy tờ có giá với khối lượng, kỳ hạn phù hợp. Từ giữa tháng 6/2022, trước những diễn biến bất lợi của thị trường quốc tế, NHNN đã phải kiểm soát chặt chẽ tiền tệ để hỗ trợ ổn định thị trường ngoại hối thông qua việc phát hành tín phiếu NHNN và kiểm soát khối lượng chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở.
Lạm phát 9 tháng đầu năm 2022 được kiểm soát tốt, trong đó lạm phát CPI bình quân là 2,73%; lạm phát cơ bản bình quân là 1,88%, góp phần tạo nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Kết quả kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở quan trọng để tổ chức quốc tế đánh giá tích cực về tình hình và triển vọng phát triển của Việt Nam. Tháng 9/2022, Moody’s Investors Service nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng Ổn định (Việt Nam là 01 trong 04 quốc gia trên thế giới được Moody’s nâng bậc tín nhiệm quốc gia kể từ đầu năm 2022 đến nay); đồng thời, IMF đã nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam lên 7% trong năm 2022, cao hơn 1 điểm phần trăm so với mức dự báo trước đó.
2. Điều hành lãi suất: Trong 8 tháng đầu năm 2022, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng nhanh2 và áp lực lạm phát trong nước gia tăng, tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp; chỉ đạo TCTD tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn. Do chịu nhiều tác động tổng hợp từ diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước, mặt bằng lãi tiền gửi và lãi suất cho vay bình quân toàn hệ thống đến cuối tháng 8/2022 có xu hướng tăng so với cuối năm 20213.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xu hướng lạm phát quốc tế tiếp tục ở mức cao, trong nước tác động vòng 2 tăng áp lực lên lạm phát, Fed tăng lãi suất nhanh, mạnh và dự báo đạt mức 4,5-4,75% vào cuối năm 2023, để tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt, phối hợp đồng bộ các công cụ và giải pháp CSTT. Theo đó, ngày 23/9/2022, NHNN điều chỉnh tăng 1%/năm lãi suất điều hành; tăng 0,3-1% lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND tại TCTD4.
3. Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại tệ
- Từ đầu năm 2022 đến nay (đặc biệt là từ giai đoạn tháng 3), tỷ giá và thị trường ngoại tệ chịu áp lực lớn từ những diễn biến phức tạp, khó lường trên thị trường quốc tế (Fed đẩy mạnh lộ trình thắt CSTT, tăng lãi suất ở mức độ lớn với tần suất cao, đồng USD quốc tế có thời điểm tăng đến hơn 19%5, xung đột Nga-Ukraine làm chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục gián đoạn làm giá xăng dầu và hàng hóa tăng cao,…). Cân đối cung – cầu trên thị trường ngoại tệ trong nước khó khăn, hệ thống TCTD bán ròng ngoại tệ cho khách hàng.
Trong bối cảnh đó, NHNN đã điều hành tỷ giá chủ động, phù hợp vừa tạo dư địa để tỷ giá diễn biến linh hoạt hơn, hấp thụ cú sốc bên ngoài, vừa bán lượng lớn ngoại tệ can thiệp để bổ sung nguồn cung thanh khoản cho thị trường. Nhờ đó, 9 tháng đầu năm 2022, VND mất giá khoảng 4,8% so với USD, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực6, diễn biến thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
- Ngày 23/9/2022, NHNN đã tổ chức Hội nghị “Phổ biến, quán triệt quy định về thanh toán, chuyển tiền xuyên biên giới” nhằm quán triệt tới toàn bộ hệ thống ngân hàng tinh thần chỉ đạo của NHNN đối với công tác quản lý hoạt động thanh toán, chuyển tiền xuyên biên giới; tăng cường công tác phòng chống rửa tiền trong quá trình triển khai thực hiện. Về cơ bản, hệ thống ngân hàng đã nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật, tiếp tục tuân thủ nghiêm túc các quy định về quản lý ngoại hối, nâng cao tính kỷ luật và chuẩn mực thị trường ngoại tệ nhằm hướng tới mục tiêu chung là ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển KT-XH.
4. Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác: NHNN thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành về điều hành CSTT, thực hiện tốt vai trò của thành viên Tổ điều hành thị trường trong nước trong việc phối hợp kiểm soát giá một số hàng hóa dịch vụ… nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
5. Về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
- Trong tháng 5/2022, NHNN đã chỉ đạo NHNN chi nhánh TP. Hà Nội và NHNN chi nhánh TP. Hồ Chí Minh thành lập các đoàn kiểm tra một số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng có trụ sở chính trên địa bàn. Trên cơ sở báo cáo kết quả kiểm tra, NHNN đã đôn đốc, chấn chỉnh việc chấp hành quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và khắc phục các tồn tại đã phát hiện được trong quá trình kiểm tra.
- Ngoài ra, triển khai Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 08/6/2022 và công văn số 2148/VPCP-KTTH ngày 30/6/2022 của Chính phủ về giải pháp quản lý thị trường vàng, thực hiện chỉ đạo của NHNN, chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã phối hợp với cơ quan chức năng có liên quan trên địa bàn (Cục Quản lý thị trường, Sở Khoa học và Công nghệ, Công an…) triển khai thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức kinh doanh vàng, tập trung vào các tổ chức được phép kinh doanh mua, bán vàng miếng, sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; Tăng cường giám sát hoạt động kinh doanh vàng của các tổ chức; Xử lý các vi phạm về hoạt động kinh doanh vàng theo thẩm quyền (nếu có).
- Ngày 28/7/2022, NHNN đã tổ chức họp với Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam và 33 TCTD, doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đều đánh giá những thành công của Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 24) và chính sách chấm dứt huy động, cho vay vàng của NHNN những năm qua là bước tiến quan trọng để ổn định thị trường vàng, hạn chế tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế, loại bỏ tình trạng vàng hóa ra khỏi hệ thống các TCTD, qua đó ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và kinh tế vĩ mô trong nước. Việc sửa đổi Nghị định 24 là vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng và thận trọng để đảm bảo mục tiêu chống vàng hóa và hạn chế tác động tới thị trường tiền tệ, ngoại hối. Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và tham khảo ý kiến rộng rãi để xây dựng báo cáo Tổng kết, đánh giá Nghị định 24 và đề xuất giải pháp phù hợp.
6. Khó khăn, thách thức và những vấn đề đặt ra
- Áp lực lạm phát có xu hướng tăng, lạm phát so với cùng kỳ tại thời điểm cuối năm 2022 dự kiến vượt 4% gây thách thức đối với nhiệm vụ kiểm soát lạm phát ngay từ đầu năm 2023.
- Việc giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Quốc hội trong thời gian tới sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức do: (1) Các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp tục đẩy nhanh tiến trình thu hẹp nới lỏng CSTT, điều chỉnh tăng lãi suất nhanh và mạnh; (2) Lạm phát trong và ngoài nước có xu hướng gia tăng do giá nguyên vật liệu thế giới tăng, chi phí vận chuyển tăng, nguồn cung gián đoạn và tác động trễ của CSTT, tài khóa nới lỏng từ năm 2020; (3) Lãi suất cho vay đã giảm ở mức thấp và đang tăng trở lại chủ yếu do cầu tín dụng gia tăng khi kinh tế tăng trưởng trở lại; lãi suất tiền gửi có xu hướng tăng; (4) Tỷ giá USD/VND có xu hướng gia tăng, gây sức ép lên lãi suất tiền VND.
- Áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng cao trong bối cảnh nền kinh tế cần vốn để phục hồi nhưng các nguồn vốn khác diễn biến không thuận lợi. Cụ thể: Thị trường vốn (thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán) đang tồn tại một số vấn đề và chưa phát triển tương xứng với vai trò cung cấp vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế; đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài so với cùng kỳ năm 2021 và kiều hối có xu hướng giảm. Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2020, tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế (IMF, WB), tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam. Theo WB, Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ tín dụng/GDP cao nhất trên thế giới. Moody’s cảnh báo tỷ lệ tín dụng trong nước/GDP và tỷ lệ tổng tài sản của ngân hàng trong nước/GDP đã tăng lên 124% và 17%-là mức cao nhất các quốc gia xếp hạng Ba và Baa, cảnh báo về rủi ro bất ổn vĩ mô.
- Trong những năm gần đây, các khoản giải ngân của NSNN vẫn chậm so với yêu cầu dẫn đến tồn ngân ngân quỹ Nhà nước (là các khoản NSNN thu từ nền kinh tế qua thu thuế, thu từ phát hành trái phiếu…) hiện nay đang ở mức cao, ngày càng bị tích tụ chưa được sử dụng, làm giảm lượng tiền trong nền kinh tế. Cung về vốn bị đọng tại NSNN, nhưng cầu về vốn vẫn ở mức cao phục vụ sản xuất kinh doanh phục hồi kinh tế, khiến việc giảm lãi suất của nền kinh tế ngày càng khó khăn.
III. Nhóm nhiệm vụ liên quan đến: Điều hành tín dụng
1. Xây dựng tiêu chí, phương thức xác định chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD trên cơ sở tình hình hoạt động, năng lực tài chính, quản trị điều hành và khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh của từng TCTD, bảo đảm thống nhất, công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với tiêu chuẩn Basel II và các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
- Tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/01/2022 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022, NHNN nêu rõ định hướng điều hành tín dụng năm 2022, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng toàn hệ thống khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Thông báo và định kỳ xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng của từng TCTD trên cơ sở các tiêu chí như tình hình hoạt động, năng lực tài chính và khả năng tăng trưởng tín dụng lành mạnh; trong đó, xem xét ưu tiên đối với TCTD tham gia hỗ trợ xử lý TCTD yếu kém, TCTD giảm mặt bằng lãi suất cho vay theo chủ trương của Chính phủ và NHNN.
- Ngày 21/02/2022, NHNN đã ban hành văn bản số 850/NHNN-CSTT về tăng trưởng tín dụng năm 2022 gửi các TCTD. Ngày 31/8/2022, NHNN đã thực hiện điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2022 đối với các TCTD có đề nghị và có thông báo gửi các TCTD. Việc thông báo và điều chỉnh tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD trên cơ sở kết quả xếp hạng từng TCTD và xem xét một số yếu tố cụ thể hóa chủ trương, định hướng điều hành của Chính phủ, NHNN như: TCTD giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, TCTD tham gia hỗ trợ xử lý các ngân hàng kém, … đảm bảo góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ đồng thời khuyến khích các TCTD nâng cao khả năng quản trị kinh doanh, an toàn hoạt động, góp phần lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng.
Như vậy, tiêu chí, phương thức xác định chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD trong năm 2022 đã được NHNN cụ thể hóa tại các văn bản nêu trên và được NHNN công bố công khai ngay từ đầu năm tại Chỉ thị 01 của Thống đốc NHNN.
Ngày 16/9/2022, NHNN đã tổ chức Hội nghị về công tác điều hành tín dụng với sự chủ trì của Thống đốc NHNN và sự tham gia của các đơn vị chức năng thuộc NHNN, đại diện các TCTD. Hội nghị đã trao đổi thẳng thắn, trực tiếp, hai chiều giữa NHNN và các TCTD để cùng nhìn nhận về bối cảnh khó khăn và những áp lực, thách thức của ngành ngân hàng. Tại Hội nghị, các TCTD đều đồng thuận với giải pháp điều hành tín dụng của NHNN thời gian qua và đánh giá đây là giải pháp phù hợp thực tiễn, đặc thù của Việt Nam; trong bối cảnh hiện nay thì không có giải pháp nào hiệu quả hơn để đạt được các mục tiêu quan trọng hàng đầu, xuyên suốt trong điều hành CSTT của NHNN là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD. Bên cạnh đó, đa số ý kiến cho rằng, tín dụng chỉ là một trong số các kênh vốn, không thể đáp ứng hết tất cả các nhu cầu vốn của nền kinh tế. Do vậy, Chính phủ cần phát triển các kênh khác như chứng khoán, trái phiếu, đầu tư công, thu hút vốn nước ngoài…
2. Chỉ đạo các TCTD tập trung nguồn vốn, đơn giản hóa quy trình, thủ tục vay vốn, tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng với lãi suất phù hợp, phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhu cầu đời sống, tiêu dùng chính đáng, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.
Căn cứ định hướng tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2022 khoảng 14% có điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế, NHNN điều hành tín dụng hỗ trợ phục hồi kinh tế, đáp ứng đủ, kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát; chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận tín dụng ngân hàng. Đến ngày 26/9/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 11,58 triệu tỷ đồng, tăng 10,83% so với cuối năm 2021 - là mức tăng cao so với cùng kỳ nhiều năm gần đây, phù hợp với diễn biến phục hồi của nền kinh tế. Trong đó: (i) Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, phù hợp với đóng góp và tăng trưởng của các ngành kinh tế trong GDP7; (ii) Tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên tăng trưởng tốt, cao hơn cùng kỳ năm trước, một số lĩnh vực có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung8; (iii) Tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ9.
Bên cạnh các giải pháp điều hành tín dụng, để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp khi vay vốn TCTD, qua đó góp phần hạn chế, đẩy lùi “tín dụng đen”, thời gian qua, NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp cụ thể như:
- Triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng; chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng; đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn; nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng để tăng cường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản;...
- Triển khai Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu nhằm tăng khả năng tiếp cận tài chính tới mọi người dân và doanh nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng tới nhóm đối tượng mục tiêu là những người chưa được tiếp cận hoặc ít được tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ tài chính.
- Phát triển mạng lưới TCTD, các công ty tài chính, tổ chức tài chính vi mô phủ khắp các vùng miền nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng của người dân. Đến nay, toàn hệ thống đã có 124 TCTD và gần 1.200 Quỹ TDND; đã có 16 công ty tài chính được cấp phép hoạt động với 17 chi nhánh, 41 văn phòng đại diện và 74.337 điểm giới thiệu dịch vụ trên toàn quốc; 04 tổ chức tài chính vi mô được cấp phép hoạt động với 64 chi nhánh và 59 phòng giao dịch thuộc 25 tỉnh, thành phố.
- Bên cạnh đó, NHCSXH đã và đang tích cực triển khai các chương trình tín dụng chính sách để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng chính đáng và trang trải chi phí sinh hoạt, chi phí việc làm với lãi suất ưu đãi. Đến ngày 27/9/2022, dư nợ tín dụng chính sách tại NHCSXH đạt 275.033 tỷ đồng, tăng 10,9% so với năm 2021 với hơn 6,4 triệu khách hàng còn dư nợ.
- Tăng cường hoạt động truyền thông về cơ chế, chính sách cho vay, xây dựng và triển khai các chương trình giáo dục tài chính trên truyền hình và các phương tiện truyền thông đại chúng để nâng cao nhận thức của người dân về các sản phẩm, dịch vụ tài chính; cảnh báo các hệ lụy để người dân phòng, tránh “tín dụng đen”.
3. Triển khai quyết liệt Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về chính sách tiền tệ, tài khóa hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết 11/NQ-CP, NHNN đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai Chương trình trong Quý I/202210. Theo đó, tình hình thực hiện các chương trình, nhiệm vụ được giao, cụ thể như sau:
a. Hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh:
- Về tình hình triển khai của NHNN
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/1/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các đơn vị liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Ngay sau khi Nghị định 31/2022/NĐ-CP ban hành, NHNN đã kịp thời ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN ngày 20/5/2022 hướng dẫn NHTM thực hiện HTLS theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP; đồng thời, Ban hành Chỉ thị 03/CT-NHNN và nhiều văn bản chỉ đạo các NHTM đẩy mạnh triển khai chương trình.
Bên cạnh đó, để thông tin rộng rãi về chính sách HTLS, NHNN đã tổ chức 03 Hội nghị triển khai và giải đáp các vấn đề phát sinh trong thực hiện, trong đó có 01 Hội nghị do Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và một số Bộ, ngành đồng chủ trì. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã có các văn bản trả lời, giải đáp các vấn đề thuộc phạm vi, chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước, chuyển Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng giải đáp các câu hỏi liên quan đến đối tượng được HTLS.
- Kết quả triển khai: Đến cuối tháng 8/2022, doanh số cho vay được HTLS đạt hơn 10.700 tỷ đối với gần khoảng 580 khách hàng, dư nợ được HTLS đạt khoảng 9.800 tỷ đồng. Hiện các ngân hàng đang tiếp tục rà soát danh mục khách hàng đáp ứng điều kiện được hỗ trợ lãi suất để đẩy mạnh công tác hướng dẫn khách hàng hoàn thiện thủ tục hỗ trợ lãi suất.
- Khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai:
+ Về đối tượng được HTLS của Nghị định 31/2022/NĐ-CP: Các lĩnh vực, ngành nghề được hỗ trợ được cụ thể hóa từ Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 của Chính phủ, song khi triển khai trong thực tiễn cho thấy các NHTM gặp khó khăn trong xác định đối tượng được HTLS trong một số trường hợp khách hàng hoạt động sản xuất, kinh doanh đa ngành; hiện nay nhiều hộ gia đình sản xuất kinh doanh vay vốn tại các NHTM nhưng không có đăng ký hộ kinh doanh nên không thuộc đối tượng được hỗ trợ.
+ Vẫn còn tâm lý e ngại của các NHTM khi triển khai thực hiện do một số chương trình HTLS (gồm chương trình HTLS năm 2009 và một số chương trình HTLS từ ngân sách nhà nước) vẫn chưa được quyết toán số tiền đã HTLS cho khách hàng.
+ Chương trình có nguồn tiền hỗ trợ từ Ngân sách nhà nước nên các NHTM cần thận trọng, đảm bảo dòng tiền hỗ trợ được đến đúng đối tượng, đúng mục tiêu, an toàn và hiệu quả, nên các NHTM mất nhiều thời gian chuẩn bị, xây dựng hệ thống tự động để theo dõi, hạch toán, quản lý dữ liệu báo cáo nhằm đảm bảo tính chính xác của dữ liệu trong công tác thanh, quyết toán, kiểm toán khi tham gia Chương trình được HTLS từ nguồn ngân sách nhà nước.
+ Một số chi nhánh NHTM đã chủ động liên hệ, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục, hồ sơ hỗ trợ, song bản thân khách hàng (nhất là các doanh nghiệp) cũng có tâm lý e ngại trong trường hợp sơ suất khi tham gia chương trình HTLS từ ngân sách nhà nước, phải tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Giải pháp trong thời gian tới:
+ NHNN đang thành lập các đoàn khảo sát liên ngành trong đầu tháng 10 để đánh giá và đôn đốc triển khai chính sách tại một số NHTM và chi nhánh NHTM tại các địa phương; Tổ chức các hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tại các tỉnh, thành phố để tăng cường thông tin, đối thoại trực tiếp giữa NHTM và khách hàng trên địa bàn, nắm bắt nhu cầu thực tế hỗ trợ của doanh nghiệp, các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiếp cận chính sách để kịp thời xử lý, tháo gỡ; Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xử lý kịp thời các khó khăn phát sinh của NHTM, doanh nghiệp; Đồng thời, tiếp tục đôn đốc, chỉ đạo các NHTM đẩy mạnh triển khai có hiệu quả chính sách.
+ Phối hợp Bộ, ngành để chỉnh sửa, giải thích rõ vướng mắc về điều kiện và đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm.
+ Cuối năm 2022, NHNN sẽ đánh giá sơ kết việc thực hiện chính sách này và sẽ đề xuất, báo cáo cấp có thẩm quyền về việc tiếp tục hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp thực tiễn trong từng giai đoạn.
b Về giữ ổn định tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn: Cuối tháng 6/2022, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung, dài hạn của toàn hệ thống TCTD là 25,08%. Các TCTD về cơ bản đều đáp ứng quy định này (trừ một số TCTD yếu kém, được kiểm soát đặc biệt).
c. Triển khai chính sách hỗ trợ thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH):
+ NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Đến nay, các bộ, ngành đã ban hành các văn bản hướng dẫn làm cơ sở để NHCSXH triển khai cho vay theo thẩm quyền.
+ Tại Quyết định số 448/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ11 đã phê duyệt hạn mức bảo lãnh phát hành trái phiếu cho NHCSXH để thực hiện các chính sách cho vay ưu đãi quy định tại Nghị quyết 43/2022/QH15 tối đa là 19.000 tỷ đồng trong năm 2022. Đến nay, NHCSXH đã tổ chức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh được 5.000 tỷ đồng.
Kết quả giải ngân các chính sách cho vay ưu đãi của NHCSXH, đến ngày 25/9/2022, NHCSXH đã tổ chức phát hành trái phiếu được 5.500 tỷ đồng (hoàn thành 27% kế hoạch để tạo nguồn vốn triển khai cho vay các chương trình tín dụng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP). Đồng thời NHCSXH đã giải ngân được 10.411 tỷ đồng, trong đó: (i) chương trình cho vay HSSV mua máy tính 768 tỷ đồng, cho hơn 78,8 nghìn lượt khách hàng mua máy vi tính và thiết bị học tập trực tuyến cho con em; (ii) chương trình cho vay Nhà ở xã hội đạt 2.408 tỷ đồng, hỗ trợ xây dựng gần 6,9 nghìn căn nhà ở xã hội; (iii) chương trình cho vay Hỗ trợ việc làm đạt 7.000 tỷ đồng, với hơn 147,8 nghìn lượt khách hàng được vay vốn giải quyết tạo việc làm; (iv) chương trình cho vay các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập đạt 184 tỷ đồng cho hơn 2.000 cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập; (v) cho vay phát triển kinh tế xã hội vùng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt 51 tỷ đồng với hơn 1.000 khách hàng.
d. Các giải pháp tháo gỡ, hỗ trợ khách hàng khắc phục khó khăn do Covid-19
- Thực hiện tái cấp vốn 4.000 tỷ đồng đối với các TCTD sau khi TCTD cho Tổng công ty hàng không Việt Nam vay theo chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
- Thực hiện tái cấp vốn đối với NHCSXH 43 tỷ đồng để cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc theo Nghị quyết 42/NQ-CP, Quyết định 15/2020/QĐ-TTg và giải ngân tái cấp vốn 4.787 tỷ đồng để cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết 68/NQ-CP, Quyết định 23/2021/QĐ-TTg.
- Thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN và các Thông tư sửa đổi, bổ sung: Đến cuối tháng 7/2022, các TCTD đã thực hiện: (i) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ: Lũy kế giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ là 722.334 tỷ đồng với 1,1 triệu khách hàng, dư nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ là 157,7 nghìn tỷ đồng; (ii) Miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ: Lũy kế giá trị nợ được miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ là 92.425 tỷ đồng với 562 nghìn khách hàng, dư nợ được miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ hiện còn 16,5 nghìn tỷ đồng.
Thời hạn để áp dụng chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi của các khoản nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid -19 đến 30/6/2022. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã chủ động thực hiện nghiên cứu, phân tích, đánh giá và dự kiến không tiếp tục sửa đổi, bổ sung quy định tại Thông tư 01/2020/TT-NHNN.
- Miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán: Tiếp tục triển khai chính sách giảm 50% phí giao dịch thanh toán qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng theo Thông tư 13/2021/TT-NHNN (áp dụng từ 01/9/2021-30/6/2022). Tính đến hết tháng 6/2022, tổng số phí các TCTD đã miễn/giảm cho khách hàng khoảng 13 nghìn tỷ đồng. Các TCTD đã áp dụng nhiều chính sách miễn, giảm phí tài khoản, thẻ cho khách hàng; triển khai các gói sản phẩm dịch vụ “zero fee” như miễn phí chuyển khoản, phí quản lý tài khoản, phí phát hành, phí thường niên thẻ,…
4. Giám sát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng dư nợ và chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, nhất là đầu tư, kinh doanh bất động sản (BĐS), chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ; bảo đảm cung ứng vốn để thị trường chứng khoán, bất động sản phát triển lành mạnh, bền vững.
Đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro (trong đó có kinh doanh BĐS, chứng khoán), NHNN đã và sẽ tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp giám sát, đảm bảo an toàn hoạt động, cụ thể:
- Hoàn thiện hành lang pháp lý thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng12.
- Giám sát chặt chẽ và có những cảnh báo sớm về tình hình cấp tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo hướng đưa nội dung thanh tra về hoạt động cấp tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro vào kế hoạch thanh tra chuyên ngành đối với các cuộc thanh tra pháp nhân định kỳ hàng năm.
- Có nhiều Công văn chỉ đạo TCTD về công tác tín dụng đối với lĩnh vực BĐS, trong đó yêu cầu các TCTD: Mở rộng tín dụng đi đôi với kiểm soát chất lượng tín dụng, tăng cường công tác thẩm định, giám sát việc sử dụng vốn vay, đảm bảo đúng mục đích, hạn chế nợ xấu mới phát sinh; Hạn chế mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng/nhóm khách hàng lớn, các dự án BĐS có quy mô lớn; Tập trung nguồn vốn tín dụng đầu tư vào các dự án nhà ở xã hội, các dự án nhà ở thương mại có hiệu quả cao, tiêu thụ tốt, đáp ứng nhu cầu thực của người dân…
- Tập trung đầu tư nguồn vốn tín dụng vào các dự án, phương án vay vốn khả thi, đảm bảo tính pháp lý, có thanh khoản tốt, khách hàng có khả năng trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực của thị trường; các dự án nhà ở xã hội, các dự án nhà ở thương mại giá rẻ, có hiệu quả cao, tiêu thụ tốt, đáp ứng nhu cầu thực của người dân.
IV. Nhóm nhiệm vụ liên quan đến: Công tác cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu.
1. Tổ chức triển khai quyết liệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025. Phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch, đáp ứng các chuẩn mực về an toàn trong hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật và tiệm cận thông lệ quốc tế, phấn đấu đạt trình độ phát triển của nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN. Tập trung xây dựng, phê duyệt, triển khai các Đề án cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém, đến năm 2025, xử lý cơ bản các ngân hàng, tổ chức tín dụng yếu kém, đặc biệt không để phát sinh ngân hàng yếu kém mới.
NHNN đã xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022), trong đó đã đề ra một số mục tiêu trong thời gian tới:
- Tạo bước chuyển rõ rệt, thực chất trong cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu; phấn đấu đến năm 2025 giảm số lượng các TCTD, xử lý cơ bản các ngân hàng yếu kém, không để phát sinh những ngân hàng yếu kém mới, hệ thống các TCTD lành mạnh và phát triển bền vững.
- Phát triển hệ thống các TCTD theo hướng các TCTD trong nước đóng vai trò chủ lực, hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch, đáp ứng các chuẩn mực về an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật và tiệm cận với thông lệ quốc tế, hướng tới đạt trình độ phát triển của Nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN.
- Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; nâng cao năng lực tài chính của TCTD; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các TCTD có liên quan.
Để triển khai đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Đề án, NHNN đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 1382/QĐ-NHNN ngày 12/8/2022).
Ngoài ra, NHNN đã có văn bản yêu cầu TCTD thực hiện rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng tài chính, hoạt động của TCTD, đồng thời nhận định những khó khăn, thách thức, tồn tại, hạn chế cần xử lý, giải pháp cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của TCTD giai đoạn 2021-2025 và lộ trình thực hiện đảm bảo phù hợp với Đề án 689. Đồng thời, NHNN đang tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các TCTD xây dựng phương án cơ cấu lại để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và triển khai.
2. Nâng cao năng lực tài chính của TCTD, nhất là tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại có vốn nhà nước chi phối.
* Đối với các NHTM Nhà nước: Trong thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo 4 NHTM nhà nước triển khai các phương án bổ sung vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính13. Hiện NHNN đang phối hợp các bộ, ngành liên quan xem xét, trình cấp thẩm quyền phê duyệt phương án tăng vốn điều lệ cho Agribank từ nguồn ngân sách nhà nước; Đối với việc tăng vốn điều lệ của BIDV, Vietcombank, VietinBank, NHNN đã có văn bản đề nghị Bộ Tài chính xem xét, có ý kiến về việc phân phối lợi nhuận năm 2021 để làm cơ sở trình cấp có thẩm quyền xem xét tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng này.
* Đối với các NHTM cổ phần: Năm 2022, NHNN đã có văn bản chấp thuận tăng vốn điều lệ đối với 15 NHTM cổ phần, trong đó, việc tăng vốn điều lệ của các ngân hàng này chủ yếu là từ nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng (lợi nhuận để lại và các quỹ dự trữ).
3. Ngăn ngừa tình trạng sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các TCTD.
Bên cạnh việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cho các TCTD thực hiện xử lý vấn đề sở hữu chéo, sở hữu vượt giới hạn quy định, NHNN tiếp tục quan tâm xem xét, nhận diện và có giải pháp kiểm soát, quyết liệt xử lý vấn đề sở hữu chéo, vi phạm sở hữu cổ phần gắn với quá trình cơ cấu lại TCTD; Các TCTD đã tích cực đẩy nhanh tiến độ xử lý các vi phạm về giới hạn sở hữu cổ phần, sở hữu chéo thông qua chuyển nhượng, thoái vốn, sáp nhập, hợp nhất, mua lại... Theo đó, sở hữu chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý có hiệu quả, tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối ngân hàng đã được hạn chế và từng bước được kiểm soát. Đến nay, các TCTD đã cơ bản xử lý, khắc phục một số vi phạm sở hữu cổ phần, sở hữu chéo. Cụ thể: (i) Số cặp TCTD sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau đến nay đã được khắc phục; (ii) Sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp giảm, đến nay còn tại 1 NHTMCP với 1 cặp sở hữu cổ phần lẫn nhau14 (tại thời điểm tháng 6/2012 có 56 cặp).
Việc xử lý sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định phát sinh trước khi Luật các TCTD năm 2010 có hiệu lực chủ yếu còn tại các Tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, phụ thuộc vào lộ trình xử lý theo đề án của các Tập đoàn và chỉ đạo của các Bộ, ngành chủ quản.
Thực tế việc xử lý vấn đề sở hữu vượt mức quy định và sở hữu chéo vẫn rất khó khăn trong trường hợp cổ đông lớn và người có liên quan của cổ đông lớn cố tình che giấu, nhờ cá nhân/tổ chức khác đứng tên hộ số cổ phần sở hữu để lách quy định của pháp luật về sở hữu chéo/sở hữu vượt mức quy định. Việc này chỉ có thể được phát hiện và nhận diện thông qua điều tra, xác minh của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
4. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về xử lý nợ xấu, thực hiện quyết liệt các biện pháp thu hồi nợ, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh. Phấn đấu đến cuối năm 2025, đưa nợ xấu toàn hệ thống (không bao gồm các ngân hàng thương mại yếu kém) ở mức dưới 3%, bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chưa được xử lý, thu hồi và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu.
- NHNN đã xây dựng, từng bước triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 nhằm tạo bước chuyển rõ rệt, thực chất trong cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu, đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện các vấn đề, tồn tại, vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng và đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị cụ thể, có biện pháp xử lý phù hợp nhằm hạn chế rủi ro, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng.
- Chỉ đạo các TCTD tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới; tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc khách hàng trả nợ; bán, phát mãi tài sản bảo đảm của khoản nợ; bán nợ theo cơ chế thị trường; sử dụng dự phòng rủi ro; nâng cao năng lực quản trị rủi ro và chất lượng công tác thẩm định tín dụng; thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát nợ xấu và xử lý nợ xấu; đồng thời, tích cực triển khai hiệu quả công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, khắc phục những khó khăn, vướng mắc theo yêu cầu tại Nghị quyết 63/2022/QH15 của Quốc hội.
Nhờ đó, đến cuối tháng 8/2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng vẫn ở mức an toàn là 1,9%; tỷ lệ nợ xấu, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống các TCTD là 4,99%15 (cuối năm 2021 là 6,3%).
Liên quan đến công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/8/2022, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 404,1 nghìn tỷ nợ xấu. NHNN đã chỉ đạo các TCTD tiếp tục áp dụng toàn diện các giải pháp xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 nhằm xử lý nhanh, hiệu quả các khoản nợ xấu.
5. Giải pháp mở rộng quy mô, tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ ngân hàng phi tín dụng trong tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại.
Tại Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 1382/QĐ-NHNN ngày 12/8/2022), NHNN đã xác định một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động dịch vụ phi tín dụng; đồng thời, chỉ đạo, hướng dẫn các TCTD xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của TCTD, trong đó có các giải pháp phù hợp nhằm phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng phi tín dụng.
6. Tăng cường năng lực công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD, thanh tra chuyên đề đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
Công tác thanh tra tiếp tục được đổi mới theo hướng vừa kết hợp thanh tra toàn diện pháp nhân, thanh tra chuyên đề, từng bước kết hợp và áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro, vừa theo hướng tập trung hiệu quả nguồn lực thanh tra vào các đối tượng, lĩnh vực có tiềm ẩn rủi ro cao, dễ phát sinh sai phạm. Qua công tác thanh tra đã phát hiện các tồn tại, sai phạm trong hoạt động của các TCTD; từ đó kiến nghị, khuyến nghị và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm để duy trì và giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động tiền tệ và ngân hàng.
Công tác giám sát ngân hàng có sự gắn kết chặt chẽ với công tác thanh tra. Nội dung giám sát không chỉ dừng ở việc giám sát tình hình tuân thủ, chấp hành các quy định về an toàn trong hoạt động mà còn chú trọng giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động của TCTD. Qua đó, đề xuất thanh tra pháp nhân, thanh tra chuyên đề đối với các đối tượng có tình hình tài chính yếu, nợ xấu cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro, các tồn tại kéo dài chưa được xử lý dứt điểm, có dấu hiệu vi phạm quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng cũng như kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài về các vấn đề tiềm ẩn rủi ro.
Đối với hoạt động cấp tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, NHNN đã đưa nội dung này vào kế hoạch thanh tra chuyên ngành nhằm phát hiện các vấn đề, tồn tại, vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng và đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị cụ thể góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD. Đồng thời, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 8857/CĐ-VPCP ngày 03/12/2021, NHNN đã thành lập các Đoàn thanh tra chuyên đề về hoạt động đầu tư TPDN trong năm 2022 tại các NHTM cổ phần có số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp cao.
7. Phát triển các tổ chức tài chính vi mô (TCVM) an toàn, hiệu quả.
Đến 30/6/2022, toàn quốc có 04 tổ chức TCVM được cấp phép hoạt động với 64 chi nhánh và 59 phòng giao dịch thuộc 24 tỉnh, thành phố. Tình hình hoạt động của khối các tổ chức TCVM đã đạt được những thành quả nhất định, hoạt động ổn định và có sự tăng trưởng16.
Hiện NHNN đang từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô, phát triển các tổ chức tài chính vi mô an toàn, bền vững, cụ thể: nghiên cứu, xây dựng Thông tư sửa đổi Thông tư 03/2018/TT-NHNN về cấp giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức TCVM (dự kiến hoàn thành trong Quý I/2023); trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD, NHNN sẽ xem xét sửa đổi, bổ sung một số điều khoản liên quan đến hoạt động của tổ chức TCVM nhằm góp phần phát triển các tổ chức TCVM an toàn, bền vững.
8. Khó khăn đối với công tác cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu.
- Khuôn khổ pháp lý về cơ cấu lại các TCTD và xử lý nợ xấu vẫn còn nhiều vướng mắc do liên quan đến các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Đồng thời, nguồn lực tài chính hỗ trợ công tác cơ cấu lại còn hạn chế.
- Vốn điều lệ của các NHTM Nhà nước tăng chậm hơn rất nhiều so với khối NHTM cổ phần, ảnh hưởng đến vai trò dẫn dắt thị trường, vai trò chủ lực, chủ đạo của toàn hệ thống.
V. Nhóm nhiệm vụ liên quan đến: Thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng; Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM); Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách về tiền kỹ thuật số quốc gia; Phối hợp, khai thác, sử dụng thông tin Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và thông tin trên thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chip trong việc quản lý hệ thống tài khoản tại các TCTD, hạn chế hành vi gian lận, mạo danh, làm giả giấy tờ tùy thân khi thực hiện các giao dịch ngân hàng điện tử; Triển khai các giải pháp kỹ thuật đảm bảo an toàn cho các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng và Phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng.
1. Về tiến trình thực hiện đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành ngân hàng
1.1. Về xây dựng cơ chế, chính sách, khung pháp lý tạo thuận lợi cho chuyển đổi số
NHNN đã ban hành Kế hoạch triển khai các Đề án, Chương trình nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng, như: Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 203017; Kế hoạch chuyển đổi số của NHNN năm 2022; Kế hoạch của NHNN triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030; Kế hoạch ngành Ngân hàng triển khai Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch hoạt động của Ban chỉ đạo chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2022; Kế hoạch triển khai đề án xác định chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số doanh nghiệp và hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi số18. Đồng thời, ban hành Chỉ thị về việc đẩy mạnh chuyển đổi số và đảm bảo an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng19 nhằm tạo thuận lợi cho chuyển đổi số, đảm bảo an ninh, an toàn, bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng.
Bên cạnh đó, NHNN đang khẩn trương xây dựng Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022.
1.2. Tổ chức thực hiện
- NHNN đã thành lập Ban chỉ đạo và Tổ công tác chuyển đổi số ngành Ngân hàng trong đó Thống đốc NHNN làm trưởng ban; Ban hành Quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo, Tổ công tác và Kế hoạch hoạt động của Ban Chỉ đạo.
- NHNN cũng đã thành lập Tổ công tác và Ban hành Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022. Đồng thời, phối hợp với Bộ Công an: (i) nghiên cứu thử nghiệm giải pháp cho phép ngành ngân hàng tiến hành xác thực khách hàng thông qua việc thu thập, gửi thông tin công dân để so khớp với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu căn cước công dân; (ii) nghiên cứu phương án làm sạch dữ liệu thông tin khách hàng nhằm đảm bảo hệ thống tài khoản, thông tin khách hàng lưu trữ tại các TCTD là chính xác; (iii) kết nối cơ sở dữ liệu dân cư phục vụ dịch vụ công và các nghiệp vụ của NHNN.
1.3. Kết quả triển khai
- Về phía NHNN: Đến nay, NHNN đã triển khai 62/370 dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3,4 và đang thực hiện nâng cấp 25 thủ tục hành chính lên dịch vụ công cấp độ 3,4. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và ứng dụng các công nghệ hiện đại, tăng cường tích hợp công nghệ thông tin trong quy trình quản lý và quản trị của NHNN; từng bước ứng dụng các công nghệ cách mạng công nghệ 4.0 theo hướng tự động hóa việc giám sát, vận hành, xử lý, dự đoán các phát sinh với các hệ thống thông tin; hoàn thiện nền tảng Chính phủ điện tử/Chính phủ số tại NHNN nhằm đáp ứng yêu cầu xử lý thủ tục hành chính, dịch vụ công và kết nối với hệ thống dịch vụ công quốc gia theo chỉ đạo của Chính phủ.
Theo báo cáo đánh giá chỉ số chuyển đổi số (DTI) của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc TW của Bộ Thông tin và Truyền thông, NHNN được xếp vị trí thứ 1 về chỉ số xếp hạng an toàn thông tin mạng, thứ 2 về chỉ số thể chế số và xếp thứ 4 về chỉ số hoạt động chuyển đổi số.
Đối với việc thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg, đến nay, NHNN đã hoàn thành thử nghiệm kỹ thuật kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ công tác phòng chống rửa tiền; đang tiếp tục phối hợp với Bộ Công an kiểm tra, đánh giá an toàn hệ thống trước khi kết nối chính thức.
- Về phía TCTD:
+ Đến nay, hầu hết các TCTD đã, đang hoặc dự tính xây dựng, triển khai Chiến lược chuyển đổi số; tích cực ứng dụng các công nghệ của CMCN 4.0 hoặc hợp tác với công ty Fintech nhằm tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động và trải nghiệm giao dịch khách hàng. Nhiều nghiệp vụ cơ bản đã được số hóa hoàn toàn 100%; nhiều ngân hàng đã ghi nhận tỷ lệ hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua kênh số với tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) ở mức tối ưu, chỉ từ 30-40%. Các ngân hàng đã ứng dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), Học máy (ML), Dữ liệu lớn (Big Data) trong đánh giá, phân loại khách hàng và quyết định giải ngân... giúp đơn giản hóa quy trình thủ tục và rút thời gian giải ngân, cho vay. Ngoài ra, các TCTD cũng chú trọng thiết lập quan hệ đối tác, hợp tác kinh doanh, mở rộng hệ sinh thái số các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và ngoài ngân hàng nhằm thu hút, giữ chân khách hàng, tích hợp sâu dịch vụ ngân hàng vào hành trình số thường nhật của khách hàng.
+ Bên cạnh đó, các ngân hàng đã nghiên cứu, ứng dụng nhiều công nghệ mới, hiện đại, an toàn, tiện lợi (ứng dụng Tokenization, thanh toán di động, sử dụng mã QR code, định danh điện tử eKYC20...) trong hoạt động thanh toán. Đến tháng 8/2022, có 82 tổ chức cung ứng dịch thanh toán (TCCUDVTT) triển khai thanh toán qua Internet và 51 TCCUDVTT triển khai thanh toán qua Mobile, hơn 100.000 điểm chấp nhận thanh toán QR Code. NHNN đã cấp phép cho 48 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
2. Đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
- NHNN đã: (i) ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021-202521; (ii) chỉ đạo NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố tham mưu cho UBND tỉnh, thành phố ban hành Kế hoạch triển khai Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025 phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, trong đó có yêu cầu các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tổ chức trung gian thanh toán trên địa bàn đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp thanh toán mới, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị cung ứng dịch vụ công thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt; (iii) chỉ đạo các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đảm bảo chất lượng, an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán, thanh toán điện tử22; (iv) tiếp tục giám sát Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
- Việc triển khai thí điểm dịch vụ Mobile-Money đã đạt được một số kết quả tích cực, góp phần vào phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, tăng cường việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo của Việt Nam. Đến cuối tháng 6/2022, tổng số tài khoản Mobile-Money được mở tại các doanh nghiệp thực hiện thí điểm là gần 1,77 triệu tài khoản, trong đó số lượng tài khoản đăng ký và sử dụng dịch vụ ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo chiếm hơn 67,2% tổng số tài khoản; phát triển hơn 7.800 điểm kinh doanh; tổng số đơn vị chấp nhận thanh toán được thiết lập là hơn 14.400 đơn vị chấp nhận thanh toán… Số lượng giao dịch thực hiện qua tài khoản Mobile – Money đã đạt hơn 11,8 triệu giao dịch với tổng giá trị hơn 642 tỷ đồng.
- Hoạt động thanh toán trong nền kinh tế được diễn ra an toàn, hiệu quả, thông suốt; hệ thống ATM, POS tiếp tục hoạt động ổn định, được các ngân hàng quan tâm đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ; hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử được vận hành ổn định, thông suốt và an toàn23; tình hình thanh khoản của các ngân hàng thành viên đảm bảo, phục vụ tốt nhu cầu thanh toán; Hoạt động thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt lĩnh vực y tế, giáo dục, cũng như đẩy mạnh triển khai hệ thống thanh toán trực tuyến với các thủ tục hành chính trên Cổng dịch vụ công Quốc gia.
3. Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách về tiền kỹ thuật số quốc gia.
NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ thành lập Tổ công tác nghiên cứu, tham mưu về tiền kỹ thuật số quốc gia bao gồm thành viên đến từ một số bộ, ngành, cơ quan liên quan với Thống đốc NHNN là Tổ trưởng. NHNN đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tiền kỹ thuật số và ban hành kế hoạch triển khai; phân công nhiệm vụ cho các thành viên tổ công tác.
4. Phối hợp, khai thác, sử dụng thông tin Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và thông tin trên thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chip trong việc quản lý hệ thống tài khoản tại các tổ chức tín dụng, hạn chế hành vi gian lận, mạo danh, làm giả giấy tờ tùy thân khi thực hiện các giao dịch ngân hàng điện tử.
a) Tình hình, tiến độ triển khai
Vừa qua, một số NHTM đã và đang phối hợp với C06 – Bộ Công an triển khai thử nghiệm giải pháp xác thực người dân qua thẻ căn cước công dân gắn chíp trong một số nghiệp vụ như: (i) Xác thực, định danh khách hàng tại quầy giao dịch; (ii) Xác thực, định danh khách hàng từ xa qua mạng Internet (eKYC) để mở tài khoản, thực hiện các giao dịch ngân hàng điện tử, ngân hàng số; (iii) Xác thực, định danh khách hàng giao dịch tại ATM, thay thế thẻ ATM do ngân hàng phát hành... Đến nay, BIDV đã triển khai thực tế tại 09 địa điểm trên địa bàn Hà Nội và Quảng Ninh; Vietcombank triển khai thí điểm từ ngày 03/6/2022 và đang lập kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng để từng bước triển khai trên diện rộng tại tất cả các chi nhánh trên toàn quốc; Vietinbank đã triển khai thí điểm dịch vụ rút tiền tại ATM bằng thẻ CCCD từ ngày 07/5/2022 tại Trụ sở chính của Vietinbank.
b) Tồn tại, hạn chế
- Nghị định số 137/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân đã cho phép TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ viễn thông, di động,... khai thác thông tin trong CSDL quốc gia về dân cư24. Tuy nhiên, hiện chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể để các TCTD có thể kết nối với CSDL quốc gia về dân cư.
- Bên cạnh việc triển khai thí điểm xác thực khách hàng tại quầy và tại máy ATM thông qua thiết bị đọc thẻ CCCD gắn chip, các tổ chức tín dụng có nhu cầu triển khai thí điểm xác thực khách hàng từ xa thông qua thư viện nhúng (SDK) cài đặt trên ứng dụng Mobile banking. Dịch vụ này nếu được triển khai sẽ khuyến khích, tạo thuận lợi cho người dân mở tài khoản, sử dụng các dịch vụ ngân hàng trên kênh số theo xu hướng phát triển hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay Bộ Công an chưa có hướng dẫn cụ thể về việc tích hợp các thư viện nhúng để đọc thông tin thẻ CCCD gắn chíp trên các ứng dụng di động.
c) Đề xuất kiến nghị: Ban hành các hướng dẫn (như hướng dẫn thủ tục kết nối, điều kiện kỹ thuật, API…) để TCTD có thể khai thác thông tin trong CSDL quốc gia về dân cư theo quy định tại Nghị định 137/2015/NĐ-CP phục vụ hoạt động nghiệp vụ ngân hàng (như làm sạch cơ sở dữ liệu khách hàng, phục vụ công tác phòng chống rửa tiền, ngăn ngừa tội phạm gian lận, lừa đảo tại các TCTD…).
5. Triển khai các giải pháp kỹ thuật đảm bảo an toàn cho các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng và Phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng.
a) Tình hình, tiến độ triển khai:
(i) Rà soát, ban hành các văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo và kiểm tra công tác bảo đảm an toàn hệ thống thông tin và phòng chống tội phạm mạng tại các TCTD.
- Năm 2022, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 21/01/2022 về đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng. Trong 9 tháng đầu năm 2022, NHNN đã ban hành 15 lượt công văn và email cảnh báo về các rủi ro, lỗ hổng bảo mật và chỉ đạo các TCTD triển khai các giải pháp phòng chống.
- Định kỳ, đột xuất tổ chức các đoàn kiểm tra về an toàn hệ thống CNTT tại các TCTD để kịp thời phát hiện, kiến nghị và chấn chỉnh kịp thời những tồn tại, hạn chế, rủi ro về an ninh, bảo mật CNTT25.
(ii) Tiếp tục tăng cường công tác truyền thông về an toàn thông tin khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử qua website, ứng dụng Internet Banking/Mobile Banking, email, tin nhắn SMS, banner, poster tại các điểm giao dịch và cảnh báo về các phương thức, thủ đoạn của tội phạm mạng.
(iii) Tiếp tục chỉ đạo các TCTD nghiên cứu, triển khai áp dụng các giải pháp kỹ thuật để tăng cường công tác bảo đảm ATTT cho các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng, trong đó trước mắt tập trung:
- Triển khai trung tâm điều hành an ninh mạng (SOC) hoặc thuê dịch vụ từ các doanh nghiệp chuyên môn ATTT để chủ động giám sát, rà soát phát hiện xử lý nhanh chóng các sự kiện mất ATTT;
- Triển khai ứng dụng các công nghệ mới của CMCN 4.0 (như AI, Bigdata) để triển khai các giải pháp giám sát, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các giao dịch đáng ngờ qua hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử.
- Phối hợp với Bộ Công an triển khai các giải pháp định danh và xác thực điện tử dựa trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; xác thực khách hàng qua thẻ CCCD gắn chip (Match on Card -MoC) và ứng dụng VNEID để nâng cao an toàn cho các dịch vụ ngân hàng điện tử. Đến nay đã có một số ngân hàng thương mại triển khai thử nghiệm xác thực khách hàng qua thẻ CCCD gắn chíp khi thực hiện rút/nộp tiền tại ATM, quầy giao dịch.
(iv) Ban hành Đề án Nâng cao hiệu quả hoạt động của Mạng lưới ứng cứu sự cố ATTT ngành Ngân hàng26 với các mục tiêu cụ thể:
- Cơ cấu tổ chức, chính sách, quy chế và quy trình hoạt động của Mạng lưới được hoàn thiện; Trang bị được nền tảng công nghệ, phương tiện kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của Mạng lưới.
- Nâng cao trình độ, kỹ năng ứng cứu sự cố cho các thành viên để chủ động xây dựng kịch bản và ứng cứu sự cố ATTT một cách chuyên nghiệp;
- Các thành viên tham gia Mạng lưới được cung cấp, chia sẻ kịp thời thông tin về các nguy cơ, rủi ro mất ATTT; được hỗ trợ điều phối ứng cứu, xử lý các sự cố ATTT; được bảo mật thông tin về sự cố và được hỗ trợ triển khai các biện pháp bảo mật thông tin về sự cố.
- Huy động được nguồn lực của các thành viên Mạng lưới và các cơ quan, tổ chức bên ngoài đóng góp vào hoạt động của Mạng lưới, sẵn sàng hỗ trợ ứng cứu sự cố xảy ra tại các đơn vị trong ngành Ngân hàng.
(iv) Phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm công nghệ cao: Ngành ngân hàng đã làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an trong các hoạt động về bảo đảm an toàn các hệ thống thông tin; phối hợp diễn tập ứng cứu sự cố ATTT; đào tạo chuyên gia ATTT; điều tra, cung cấp thông tin truy bắt tội phạm sử dụng công nghệ cao liên quan đến ngành Ngân hàng như: Phối hợp với Bộ Công an kiểm tra tại Công ty Cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam và một số tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán: OnePay, Gpay, AirPay…; Phối hợp với Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) – Bộ Thông tin và Truyền thông xử lý các tên miền có dấu hiệu vi phạm về hoạt động ngân hàng điện tử.
b) Tồn tại, hạn chế:
- Tình hình an ninh mạng tại Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng có xu hướng gia tăng, có tính chất xuyên quốc gia, gây thiệt hại lớn. Trong 6 tháng đầu năm 2022, Bộ Công an đã phát hiện, xử lý 840 chuyên án, vụ việc liên quan tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản qua mạng (tăng 42% so với 6 tháng cuối năm 2021)27. Đáng chú ý là hệ thống thông tin của một số ngân hàng cũng đã bị tấn công, xâm nhập bởi nhóm tội phạm nước ngoài28.
- Tội phạm công nghệ cao ngày càng tinh vi, với các thủ đoạn mạo danh, làm giả, chỉnh sửa thông tin giấy tờ tùy thân; can thiệp đường truyền để thay đổi, chỉnh sửa thông tin nhận biết khách hàng… trong quá trình mở tài khoản eKYC cho mục đích gian lận; Trong khi đó, việc kết nối, khai thác thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư của ngành Ngân hàng nhằm phục vụ xác minh thông tin nhận biết khách hàng mới bước đầu triển khai, chưa chính thức kết nối.
- Nhận thức và kỹ năng về ATTT của người dùng Internet Việt Nam so với các nước trên thế giới vẫn còn hạn chế, người dân chưa được trang bị tốt về công nghệ và kỹ năng bảo đảm ATTT. Một bộ phận nhỏ người dân thiếu thông tin, chưa ý thức được hậu quả của hành vi cho thuê, cho mượn, mua bán thông tin tài khoản. Trong khi đó, tại Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật riêng về bảo vệ dữ liệu cá nhân (bao gồm thông tin của khách hàng ngân hàng) mà chỉ có các quy định chung và nằm rải rác ở một số văn bản chuyên ngành. Do đó việc triển khai các giải pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân chưa được tổng thể, toàn diện, dẫn đến các nguy cơ, rủi ro về lộ lọt dữ liệu.
c) Đề xuất kiến nghị:
- Bộ Công an đầu mối đánh giá quá trình triển khai thử nghiệm để sớm đề xuất phương án triển khai diện rộng cho phép các TCTD kết nối, khai thác thông tin từ CSDL quốc gia về dân cư, CSDL CCCD, thẻ CCCD gắn chip để phục vụ xác minh chính xác thông tin nhận biết khách hàng, hạn chế hành vi gian lận, mạo danh, làm giả giấy tờ tùy thân khi mở, sử dụng tài khoản thanh toán.
- Bộ Công an sớm hoàn thiện dự thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân hoặc có thể đề xuất xây dựng Luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Bộ Thông tin và truyền thông phối hợp với Bộ Công an triển khai các giải pháp theo dõi, giám sát và ngăn chặn kịp thời các trang web độc hại, lừa đảo và tội phạm sử dụng các trạm BTS giả để chèn sóng giả mạo tin nhắn SMS Brandname của các ngân hàng.
- Bộ Thông tin và truyền thông phối hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo cần tích cực triển khai có hiệu quả Đề án Tuyên truyền, nâng cao nhận thức và phổ biến kiến thức về ATTT giai đoạn 2021-2025 đã được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 1907/QĐ-TTg ngày 23/11/2020 để nâng cao kỹ năng, nhận thức đảm bảo ATTT của người dân Việt Nam, giảm thiểu các sự cố mất ATTT từ phía người dùng.
VI. Nhóm nhiệm vụ liên quan đến việc: Triển khai quyết liệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
1. Tình hình triển khai Chiến lược
Ngay sau khi Chiến lược được ban hành, NHNN và các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan có liên quan đã tích cực triển khai thực hiện. Với vai trò là Cơ quan Thường trực giúp việc Ban Chỉ đạo quốc gia về tài chính toàn diện (BCĐ), NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập BCĐ và ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của BCĐ. Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan có liên quan đã xây dựng và ban hành Kế hoạch hành động để tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược.
Chiến lược đề ra 6 nhóm giải pháp. Qua 2 năm triển khai thực hiện Chiến lược, các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan liên quan đã chủ động, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp. Về cơ bản, các mục tiêu đến năm 2025 đã và đang được thực hiện theo đúng định hướng Chiến lược đã đề ra. Cụ thể, các nhiệm vụ, giải pháp đã được triển khai như sau:
(i) Khuôn khổ pháp lý không ngừng được hoàn thiện tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu của tài chính toàn diện.
(ii) Các tổ chức cung ứng dịch vụ tiếp tục phát triển mạng lưới hoạt động trên phạm vi cả nước; đồng thời, sắp xếp lại mạng lưới hiện có hợp lý hơn, hướng tới những địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng được phát triển khá đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
(iii) Các sản phẩm, dịch vụ tài chính, nhất là các sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản hướng đến đối tượng mục tiêu của tài chính toàn diện, được chú trọng phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại, tiện ích, với chi phí thấp, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
(iv) Cơ sở hạ tầng thanh toán tiếp tục được đầu tư nâng cấp, hoàn thiện, tăng cường kết nối liên thông nhằm gia tăng hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển TTKDTM, thương mại điện tử.
(v) Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan có liên quan đã chủ động xây dựng và triển khai các chương trình để tăng cường kiến thức, kỹ năng tài chính cho người dân, doanh nghiệp; lồng ghép các kiến thức về tài chính vào Chương trình giáo dục phổ thông quốc gia; tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về bảo vệ người tiêu dùng tài chính.
(vi) Mục tiêu tài chính toàn diện được lồng ghép vào các chương trình, kế hoạch hoạt động của các bộ, ngành, địa phương, tạo sự lan tỏa cả về phạm vi và quy mô triển khai của Chiến lược.
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.1. Tồn tại, hạn chế: (i) Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, khuôn khổ pháp lý còn chưa bắt kịp được xu thế phát triển của thị trường tài chính; (ii) Mạng lưới điểm cung ứng dịch vụ tài chính và cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ TTKDTM còn hạn chế ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; (iii) Nhận thức về nội dung và ý nghĩa của tài chính toàn diện của một số cơ quan còn hạn chế; một số TCTD còn lúng túng trong triển khai Chiến lược.
2.2. Nguyên nhân: Thực tiễn điều hành của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan có liên quan cũng như các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính chưa theo kịp sự phát triển nhanh của khoa học và công nghệ; Địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa mật độ dân cư thưa, kinh tế kém phát triển, trình độ dân trí thấp nên các TCTD gặp khó khăn khi mở rộng mạng lưới giao dịch; Một bộ phận người dân còn thói quen sử dụng tiền mặt, ngại tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính mới; Hiểu biết về tài chính toàn diện của một bộ phận người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vẫn còn hạn chế; Thiên tai, dịch bệnh đã gây cản trở tới nhiều hoạt động của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan có liên quan.
3. Kiến nghị, đề xuất
* Đối với Chính phủ: Chỉ đạo các bộ, ngành liên quan đẩy mạnh hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và những chính sách, giải pháp hỗ trợ liên quan như: Rà soát sửa đổi, bổ sung, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền các quy định pháp lý về giao dịch điện tử, bảo vệ dữ liệu, bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu người dùng, định danh và xác thực điện tử…; Sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về đất đai nhằm quản lý, sử dụng bền vững, hiệu quả đất nông nghiệp; Nghiên cứu để xem xét, sửa đổi Luật Hợp tác xã năm 2012 và các quy định pháp luật liên quan đến kinh tế tập thể, hợp tác xã; Phát triển thị trường tài chính, tín dụng vi mô, phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính mới; Tiếp tục hoàn thiện chính sách về bảo hiểm nông nghiệp; Tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi, khuyến khích các TCTD cho vay đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Đẩy mạnh triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, hiểu biết người dân về ứng dụng kỹ thuật số, rủi ro và cơ hội từ CMCN 4.0; Chú trọng công tác đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng thích ứng với CMCN 4.0.
* Đối với các bộ, ngành, địa phương: chủ động triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp phân công tại Chương trình hành động thực hiện Chiến lược, phối hợp chặt chẽ với NHNN trong quá trình triển khai nhằm đảm bảo tiến độ và đạt được các chỉ tiêu Chiến lược đề ra đến năm 2025.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin gửi các vị Đại biểu Quốc hội./.
Nơi nhận: - Như trên; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - VPQH: PVHĐGS, HC, Tin học; - VPCP: QHĐP; - Ban lãnh đạo NHNN; - CSTT, TDCNKT, PC, QLNH, TT, CQTTGSNH, VCL; CNTT; - Lưu: VP, VP1.V.N.Quỳnh |
THỐNG ĐỐC
(Đã ký)
Nguyễn Thị Hồng
|
1 (i) TCTD mua, bán TPDN phải có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chỉ được mua TPDN khi TCTD đó có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%; (ii) TCTD chỉ được mua TPDN khi phương án phát hành, phương án sử dụng vốn khả thi, doanh nghiệp phát hành trái phiếu có khẳ năng tài chính để đảm bảo thanh toán đủ gốc và lãi trái phiếu đúng hạn, doanh nghiệp phát hành không có nợ xấu tại các TCTD trong vòng 12 tháng gần nhất; (iii) TCTD không được mua TPDN phát hành có mục đích để góp vốn, mua cổ phần tại doanh nghiệp khác, có mục đích để tăng quy mô vốn hoạt động…
2 Tính chung cả năm 2021, thế giới có 113 lượt tăng lãi suất; Tính từ đầu năm 2022 đến nay, có tổng cộng 269 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu. Nhiều NHTW điều chỉnh tăng nhanh và mạnh lãi suất điều hành, như Fed (5 lượt lãi suất liên tiếp lên mức 3-3.250%), ECB (tăng 2 lượt với mức tăng 0,5% và 0,75%/năm), BoE, Canada, Hàn Quốc, Australia, Brazil, Ấn Độ, Nam Phi; Chi-lê; Mê-xi-cô; Séc; Hungary; Ba-lan… để kiểm soát lạm phát. Trong khối ASEAN, Philippines, Malaysia, Indonesia và Thái lan đã liên tục tăng lãi suất điều hành.
3 Đến tháng 8/2022, lãi suất huy động tăng 0,33%/năm và lãi suất cho vay tăng 0,36%/năm so với tháng 12/2021.
4 Cụ thể: (i) Lãi suất tái cấp vốn tăng từ 4%/năm lên 5%/năm; Lãi suất tái chiết khấu tăng từ 2,5%/năm lên 3,5%/năm; Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN tăng từ 5%/năm lên 6%/năm. (ii) Trần lãi suất tiền gửi bằng VND tại các TCTD: đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng tăng từ 0,2%/năm lên 0,5%/năm, kỳ hạn 1T-dưới 6T tăng từ 4%/năm lên 5%/năm.
5 Ngày 28/09/2022, chỉ số DXY đạt mức 114,8 điểm tăng 19,62% so với cuối năm 2021 và tăng 23% so với cùng kỳ năm 2021. Đến ngày 30/9/2022, chỉ số DXY duy trì quanh mức 112-114.
6 Đến sáng ngày 30/9/2022, so với cuối năm 2021, các đồng tiền mất giá mạnh so với USD: TWD (-14,58%); THB (-14,35%); JPY (-25,72%); KRW (-20,34%); PHP (-15,13%); INR (-9,65%); MYR (-11,4%); CNY (-12%); EUR (-13,8%); GBP (-18,03%).
7 Tạm tính đến cuối tháng 8/2022, tín dụng ngành nông, lâm, thủy sản tăng 7,56%; tín dụng ngành công nghiệp-xây dựng tăng 7,37%; Tín dụng ngành thương mại-dịch vụ tăng 11,34%.
8 Tạm tính đến cuối tháng 8/2021, tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tăng 9,26%; Doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 10,54%; xuất khẩu tăng 2,68%; Công nghiệp hỗ trợ tăng 11,6%; Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao giảm 0,28%.
9 Đến tháng 8/2022: (i) Tín dụng đối với lĩnh vực BĐS tăng 15,68% so với cuối năm 2021, chiếm 20,92% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống, trong đó kinh doanh BĐS tăng 7,35%; phục vụ mục đích tự sử dụng tăng 20,14%; (ii) Tín dụng để đầu tư, kinh doanh chứng khoán giảm 35,07%, chiếm 0,32%; (iii) Đến 30/6/2022, tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông giảm 1,72% so với cuối năm 2021, chiếm 0,88%.
10 Quyết định số 422/QĐ-NHNN ngày 18/3/2022 của Thống đốc NHNN.
11 phê duyệt Chương trình quản lý nợ công 3 năm giai đoạn 2022-2024 và Kế hoạch vay trả nợ công năm 2022.
12 Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014, Thông tư số 06/2016/TT-NHNN ngày 27/5/2016, Thông tư số 19/2017/TT-NHNN, Thông tư 22/2019/TT-NHNN, Thông tư 08/2020/TT-NHNN, Thông tư 23/2020/TT-NHNN, Thông tư 41/2016/TT-NHNN.
13(i) Agribank đã được Bộ Tài chính cấp bổ sung 3.500 tỷ đồng vốn điều lệ; (ii) VietinBank đã chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ thêm 10.824 tỷ đồng sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án; (iii) Vietcombank đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án đầu tư bổ sung vốn nhà nước thông qua việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức từ phần lợi nhuận còn lại năm 2019, tổng vốn điều lệ tăng thêm là 10.237 tỷ đồng; (iv) BIDV đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án đầu tư bổ sung vốn nhà nước thông qua chi trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại giai đoạn 2018-2020, tổng số vốn điều lệ tăng thêm là 10.365 tỷ đồng.
14 Gồm: NHTMCP Á Châu-Công ty cổ phần Bất động sản Hòa phát-Á Châu (tỷ lệ sở hữu của NHTMCP Á Châu (ACB) tại Công ty cổ phần Bất động sản Hòa Phát-Á Châu là 2,86% và ngược lại là 0,05%).
15 Gồm toàn bộ dư nợ của khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và miễn, giảm lãi theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN (và các văn bản sửa đổi, bổ sung) có nguy cơ tiềm ẩn thành nợ xấu.
16 Quy mô tổng tài sản của toàn hệ thống tổ chức TCVM đến 30/06/2022 đạt gần 9.000 tỷ đồng; Dư nợ cho vay chiếm 85% tổng tài sản; Số khách hàng được vay vốn khoảng 460 nghìn khách hàng.
17 Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021
18 Quyết định số 1601/QĐ-NHNN ngày 21/9/2022
19 Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 13/01/2022.
20 Đến hết tháng 6/2022, có 5,6 triệu tài khoản và 8,9 triệu thẻ mở bằng phương thức này đang hoạt động.
21 Quyết định 2006/QĐ-NHNN ngày 17/12/2021.
22 Công văn số 5786/NHNN-TT ngày 19/8/2022; Công văn số 5865/NHNN-TT ngày 24/8/2022.
23 Trong 8 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021: giao dịch qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng trên 7,24% về số lượng và tăng trên 33,21% về giá trị; giao dịch qua Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 99,64% về số lượng và 114,25% về giá trị; giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 83,7% về số lượng và 33,4% về giá trị; qua ATM tăng 9,43% về số lượng và tăng 11,90% về giá trị; qua Internet tăng 78,3% về số lượng và 35,5% về giá trị; qua điện thoại di động tăng 107,0% về số lượng và 92,1% về giá trị; qua QR tăng 122,5% về số lượng và 167,2% về giá trị.
24 Khoản 2 Điều 8.
25 Từ đầu năm 2022 đến nay, NHNN đã tổ chức kiểm tra về an toàn hệ thống CNTT tại 4 TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (NHTMCP Bảo Việt, CTTC Mirae Asset, CTTC Tín Việt, Tổng Công ty truyền thông (VNPT Media))
26 Quyết định số 1377/QĐ-NHNN ngày 02/8/2022.
27 https://cand.com.vn/Cong-nghe/phat-hien-xu-ly-840-chuyen-an-vu-viec-lien-quan-toi-pham-mang-i656116/
28 https://congan.com.vn/an-ninh-kinh-te/phat-hien-toi-pham-nuoc-ngoai-tan-cong-vao-he-thong-ngan-hang-viet-nam_132142.html