Dunbar là dự án hợp tác giữa Ngân hàng Thanh toán Quốc tế - BIS (Trung tâm Đổi mới sáng tạo) với một số ngân hàng trung ương, gồm Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA), Ngân hàng Trung ương Malaysia (BNM), Cơ quan Quản lý tiền tệ Singapore (MAS) và Ngân hàng Dự trữ Nam Phi (SARB) trong việc thử nghiệm cung cấp dịch vụ thanh toán xuyên biên giới sử dụng tiền kỹ thuật số quốc gia (Central bank digital currency - CBDC).
Cơ sở, động lực thúc đẩy dự án
Thanh toán xuyên biên giới là việc thanh toán, chuyển tiền mà người gửi và người nhận ở các quốc gia khác nhau, được chia làm hai phân khúc bán buôn và bán lẻ. Trong đó, thanh toán bán buôn xuyên biên giới liên quan đến việc chuyển tiền giá trị cao giữa các tổ chức tài chính cho khách hàng của mình thông qua hệ thống thanh toán song phương hoặc đa phương; thanh toán bán lẻ xuyên biên giới liên quan đến các khoản thanh toán giá trị nhỏ hơn giữa những người dùng cuối (khách hàng, doanh nghiệp).
Một điều hiển nhiên là khi thanh toán xuyên biên giới thuận tiện, nhanh chóng và chi phí hợp lý, an toàn sẽ đem lại nhiều lợi ích cho người dân và các nền kinh tế trên toàn thế giới, góp phần phát triển thương mại quốc tế, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy phổ cập tài chính toàn diện. Tuy nhiên, thanh toán xuyên biên giới đang tụt hậu đáng kể so với thanh toán trong nước trong việc đáp ứng kỳ vọng của người dùng về dịch vụ. Không giống như thanh toán trong nước, nơi mà các ngân hàng có thể thanh toán trực tiếp cho nhau trên một nền tảng thanh toán quốc gia sử dụng duy nhất một đồng tiền pháp định, hiện không có nền tảng duy nhất nào cho thanh toán xuyên biên giới. Thanh toán xuyên biên giới hiện nay đa phần thực hiện thông qua ngân hàng đại lý (các ngân hàng mở tài khoản ngoại tệ tại nhau) và giao dịch trên nhiều hệ thống công nghệ khác nhau với các định dạng tin nhắn chuyển tiền (message) khác nhau, mỗi khoản thanh toán thường được chuyển qua nhiều ngân hàng đại lý và mỗi ngân hàng đều cần thời gian với chi phí xử lý nhất định. Bên cạnh đó, hoạt động thanh toán xuyên biên giới cần tuân thủ các quy định quốc tế chặt chẽ về kiểm soát ngoại hối, phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố (AML/CFT) trong khi quy trình thẩm định và định danh khách hàng lại thực hiện theo quy định của từng quốc gia và đa số vẫn thực hiện thủ công. Tất cả các vấn đề này khiến cho thanh toán xuyên biên giới chậm hơn, phức tạp hơn và chi phí cao hơn so với thanh toán trong nước.
Nhằm giải quyết những thách thức trong thực tế và phát triển thanh toán xuyên biên giới trên toàn cầu, từ cuối năm 2020, nhóm 20 nền kinh tế lớn (G20) đã thông qua một lộ trình đầy tham vọng, được phát triển bởi Ban ổn định tài chính (FSB) và Ủy ban về Thanh toán và Cơ sở thị trường tài chính (CPMI) của BIS cùng các cơ quan, tổ chức quốc tế liên quan khác. Lộ trình của nhóm đặt ra trong vòng 5 năm với nhiều giải pháp được đề xuất nhằm giảm chi phí và thời gian giao dịch, tăng tính minh bạch và khả năng tiếp cận… đối với giao dịch thanh toán xuyên biên giới và một trong các giải pháp được đề xuất là thiết lập một cơ sở hạ tầng thanh toán chung sử dụng nhiều CBDC. CBDC được hiểu là tiền kỹ thuật số quốc gia do ngân hàng trung ương phát hành, là đồng tiền pháp định của quốc gia và thể hiện quyền truy đòi đối với ngân hàng trung ương. Đây cũng là giải pháp mà nhiều quốc gia và ngân hàng trung ương các nước hiện đang quan tâm, xem xét hoặc nghiên cứu thử nghiệm (1) hoặc dùng để đánh giá tính khả thi trong việc cải thiện giao dịch thanh toán nội địa và thanh toán xuyên biên giới (2)…
(1) Theo báo cáo khảo sát tháng 1/2021 của BIS về tình hình nghiên cứu CBDC trên thế giới (Ready, steady, go? - Results of the third BIS survey on central bank digital currency), 86% số NHTW tham gia khảo sát đang tiến hành nghiên cứu về CBDC, 14% đã chuyển sang giai đoạn thí điểm ở phạm vi nhỏ.
(2) Dự án thanh toán nội địa Atom của RBA, Ubin của MAS, Khokha của SARB, hay dự án thanh toán song phương Jassper-Ubin của Canada và Singapore…
Dự án Dunbar, thử nghiệm giao dịch thanh toán xuyên biên giới sử dụng CBDC
Trên cơ sở kinh nghiệm triển khai thử nghiệm một số dự án thanh toán nội địa đã sử dụng CBDC, BIS và các ngân hàng trung ương Úc, Singapore, Malaysia và Nam Phi đã tiến hành hợp tác triển khai dự án Dunbar để kiểm chứng việc các tổ chức tài chính có thể sử dụng CBDC để giao dịch trực tiếp với nhau trong thanh toán xuyên biên giới thay vì mô hình truyền thống hiện nay hay không.
Theo đó, dự án Dunbar được thiết kế tập trung vào phân khúc thanh toán CBDC bán buôn giữa các ngân hàng (thanh toán liên ngân hàng). Trên một nền tảng công nghệ chung, mỗi ngân hàng trung ương sẽ phát hành đồng CBDC nội tệ của mình. Các ngân hàng thương mại tham gia thanh toán quốc tế có thể sử dụng CBDC thuộc “rổ” CBDC chung để thanh toán trực tiếp với nhau mà không phải mở tài khoản tại ngân hàng đại lý (hình dưới đây). Trường hợp đơn giản, ngân hàng Singapore là S2 có giấy phép hoạt động ở cả Singapore và Malaysia, được quyền truy cập vào hệ thống thanh toán của cả hai nước này và được sử dụng cả hai loại CBDC (đô la Singapore và Ringgit Malaysia) để thanh toán/chuyển tiền trực tiếp với các ngân hàng tại hai nước này (hình bóng sáng). Trường hợp S2 không có hiện diện hoặc giấy phép hoạt động tại quốc gia nào đó, như tại Úc và Nam Phi (hình bóng mờ), thì vẫn có thể sử dụng tất cả các loại CBDC để giao dịch trực tiếp với các ngân hàng tại các quốc gia này; cụ thể ngân hàng Singapore S2 có thể sử dụng CBDC Úc để thanh toán cho ngân hàng Nam Phi Z1, điều mà mô hình truyền thống không thể thực hiện được mà phải thông qua ngân hàng đại lý.
Mô tả giao dịch trên nền tảng chung CBDC (Ảnh: Theo BIS).
Hiệu quả, rào cản và thách thức
Với mô hình thanh toán như trên, các chuyên gia kỳ vọng việc sử dụng CBDC phát hành trên cùng nền tảng công nghệ sẽ cho phép các giao dịch thanh toán xuyên biên giới thực hiện nhanh hơn, rẻ hơn và an toàn hơn do giảm sự phụ thuộc vào các bên trung gian (các ngân hàng sẽ giao dịch trực tiếp với nhau bằng CBDC mà không phải mở tài khoản tại các ngân hàng đại lý) và đơn giản hóa quy trình thanh toán (các giao dịch thanh toán được ghi lại trên một sổ cái duy nhất và các bên tham gia chủ động theo dõi được số dư tài khoản của mình). Việc tập trung các giao dịch thanh toán xuyên biên giới trên nền tảng công nghệ chung cũng cho phép giảm thiểu những quy trình xử lý trùng lặp hay thủ công. Bên cạnh đó, mô hình này cũng cho phép tự động hóa các quy trình xử lý giao dịch thanh toán thông qua hợp đồng thông minh, giúp đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên liên quan.
Mặc dù có những lợi ích đáng kể như trên, theo các chuyên gia, mô hình này vẫn còn một số rào cản, thách thức. Thứ nhất là quyền truy cập, đó là làm thế nào để xác định một ngân hàng không cư trú (không có hiện diện hoặc không được phép hoạt động/cung cấp dịch vụ tại một nước nào đó) có đủ tin cậy hay không để được phép sử dụng nền tảng thanh toán chung CBDC để giao dịch tại nước đó. Thứ hai là vấn đề pháp lý, làm thế nào để đơn giản hóa luồng giao dịch thanh toán xuyên biên giới trong khi vẫn tôn trọng những khác biệt về pháp lý giữa các quốc gia khác nhau. Thứ ba là vấn đề quản trị, mỗi ngân hàng trung ương đều có mức độ kiểm soát cao với hệ thống thanh toán nội địa của mình nên có thể lo ngại về an ninh quốc gia từ việc chia sẻ cơ sở hạ tầng thanh toán quan trọng với các quốc gia khác.
Lường trước các thách thức này, dự án Dunbar cũng đã tập trung nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm các giải pháp (thông qua các mẫu thử nghiệm) để chứng minh tính khả thi của nền tảng thanh toán xuyên biên giới dùng chung CBDC. Cụ thể, các chuyên gia thanh toán của Dự án Dunbar đã phát triển mô hình “lai” cho phép hỗ trợ linh hoạt đối với quốc gia nơi không cho phép ngân hàng không cư trú được tiếp cận CBDC nội tệ; hay phân định cụ thể ranh giới cho phép các quy trình mà ngân hàng trung ương nước đó không muốn giải quyết/chia sẻ trên nền tảng thanh toán chung CBDC thì có thể được xử lý trong nền tảng riêng của nước đó; đồng thời xây dựng quy tắc để trao quyền tự chủ cho ngân hàng trung ương mỗi nước trong việc áp dụng các quy định về tài chính tiền tệ của quốc gia mình.
Dự án Dunbar được coi là một trong những dự án đầu tiên thử nghiệm sử dụng nhiều đồng CBDC để phục vụ cho hoạt động thanh toán xuyên biên giới, đến nay đã hoàn thành thử nghiệm giai đoạn đầu và cho thấy tính khả thi về mặt kỹ thuật trong việc sử dụng mô hình nền tảng chung CBDC trong thanh toán xuyên biên giới kết hợp với các giải pháp tiếp cận linh hoạt để giải quyết ba nhóm thách thức. Dự án cũng minh chứng cho những nỗ lực đổi mới sáng tạo của ngành ngân hàng các nước trong việc ứng dụng thành tựu công nghệ 4.0 để thúc đẩy phát triển hoạt động thanh toán nói chung và hoạt động thanh toán xuyên biên giới nói riêng nhằm cung cấp những dịch vụ thanh toán an toàn, thuận tiện, tiết kiệm cho người dân trên thế giới.
ĐTT - VA (theo Bis)