1
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nhận được 02 kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Dương gửi tới trước Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV do Ban Dân nguyện chuyển đến theo văn bản số 1611/BDN ngày 21/11/2023 và Văn phòng Chính phủ chuyển đến theo văn bản số 9424/VPCP-QHĐP ngày 30/11/2023.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trân trọng cảm ơn Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương và xin báo cáo như sau:
1. Kiến nghị của cử tri: “Hiện tại mức lãi suất tiền gửi thấp nhưng lãi suất cho vay cao. Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét điều chỉnh, cân đối chênh lệch lãi suất tiền gửi và tiền vay, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp có thể tiếp cận các khoản tiền vay của ngân hàng để phát triển kinh tế, ổn định và mở rộng sản xuất kinh doanh”. (Câu số 03 văn bản số 1611/BDN)
Trả lời:
Lãi suất là một trong các công cụ chính sách tiền tệ (CSTT) được qui định tại Điều 10 Luật NHNN. Thời gian qua, NHNN điều hành lãi suất phù hợp với mục tiêu CSTT nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo luật định; đồng thời NHNN bám sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước để điều hành lãi suất kết hợp với các công cụ CSTT khác đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD), hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Theo quy định hiện hành, lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của TCTD đối với khách hàng là do TCTD và khách hàng thỏa thuận theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vốn vay và mức độ tín nhiệm của khách hàng1.
Năm 2023, thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân, NHNN đã điều chỉnh giảm liên tục 04 lần các mức lãi suất điều hành với mức giảm 0,5-2,0%/năm2, trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao, qua đó tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, NHNN đã thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để phấn đấu giảm lãi suất cho vay, cụ thể: Khuyến khích TCTD tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh; Chỉ đạo các TCTD3 và 04 lần tổ chức cuộc họp với các NHTM yêu cầu tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất, nhất là giảm lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay còn dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới (phấn đấu mức giảm tối thiểu 1,5-2%/năm).
Đến nay, mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm (lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các NHTM giảm khoảng hơn 2,5%/năm so với cuối năm 2022)4. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (trong đó có lĩnh vực nông nghiệp nông thôn) ở mức 4,0%/năm. Với tác động có độ trễ của chính sách sau những lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành và các biện pháp đồng bộ khác của NHNN dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm.
Thời gian tới, NHNN tiếp tục theo dõi sát diễn biến tiền tệ trong nước, quốc tế, dự báo lạm phát và lãi suất thị trường để điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; tiếp tục khuyến khích các TCTD tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
2. Kiến nghị của cử tri: “Cử tri kiến nghị xem xét hỗ trợ lãi suất vay vốn của hộ cận nghèo theo tiêu chí của cấp tỉnh trở lên như mức lãi suất vay vốn đối với hộ nghèo vì hiện nay hộ cận nghèo và hộ nghèo đều có mức chuẩn thu nhập như nhau, chỉ khác nhau ở chiều thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản nhưng hộ cận nghèo vay vốn phải trả lãi suất cao hơn hộ nghèo”. (Câu số 114 văn bản số 9424/VPCP-QHĐP)
Trả lời:
Hiện nay chương trình tín dụng đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo đang được thực hiện tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) theo quy định tại Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo. Theo đó, mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo đang áp dụng là 100 triệu đồng/hộ, thời hạn cho vay tối đa 10 năm, lãi suất cho vay đối với hộ cận nghèo (7,92%/năm) bằng 120% so với lãi suất cho vay đối với hộ nghèo (6,6%/năm). Theo báo cáo của NHCSXH, đến 31/12/2023, dư nợ chương trình cho vay đối với hộ nghèo đạt 33.563 tỷ đồng với hơn 689 nghìn khách hàng có dư nợ, dư nợ chương trình cho vay đối với hộ cận nghèo đạt 41.509 tỷ đồng với hơn 845 nghìn khách hàng có dư nợ, đây là những chương trình có dư nợ lớn tại NHCSXH.
Việc thiết kế mức độ ưu đãi của chính sách đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo được căn cứ trên cơ sở quan điểm, định hướng về chính sách xã hội tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, theo đó “chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số”. Do đó, mức lãi suất cho vay đối với các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH đã được các Bộ, ngành, cơ quan chủ trì xây dựng, thiết kế theo hướng ưu tiên trước hết với hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, sau đó đến hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, các đối tượng chính sách khác. Ngoài ra, mức lãi suất còn căn cứ trên khả năng cân đối, bố trí cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý của ngân sách nhà nước cho NHCSXH để tổ chức triển khai chương trình.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2022-2023, thực hiện các chính sách tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ (chương trình kết thúc ngày 31/12/2023), NHCSXH đã thực hiện hỗ trợ lãi suất 2%/năm đối với các khoản vay có lãi suất cho vay trên 6%/năm được giải ngân trong giai đoạn 2022-2023, theo đó các khoản vay của hộ nghèo, hộ cận nghèo với mức lãi suất theo quy định lần lượt là 6,6%/năm và 7,92%/năm cũng thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất theo Chương trình và giảm 2%/năm còn tương ứng là 4,6%/năm và 5,92%/năm. Theo báo cáo của NHCSXH, đến ngày 31/10/2023, NHCSXH đã hoàn thành theo kế hoạch được giao tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội việc thực hiện hỗ trợ lãi suất (2.995,2/3000 tỷ đồng, đạt 99,84% kế hoạch, với hơn 3,8 triệu khoản vay được hỗ trợ).
Trên đây là ý kiến trả lời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về nội dung kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Dương. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trân trọng cảm ơn và rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, ủng hộ của cử tri đối với hoạt động ngân hàng./.
1 Về lãi suất tiền gửi: (1) Tại khoản 1 Điều 91 Luật Các TCTD 2010 (đã được sửa đổi bổ sung) quy định: Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. (2) Tại Điều 1 Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014, quy định: 1. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài áp dụng lãi suất tiền gửi bằng VND của tổ chức và cá nhân không vượt quá mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 tháng, tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ và đối với từng loại hình tổ chức tín dụng. 2. Tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất bằng đồng Việt Nam đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên của tổ chức và cá nhân trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.
Về lãi suất cho vay: (1) Tại khoản 2 Điều 91 Luật Các TCTD 2010 (đã được sửa đổi bổ sung) quy định: 2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. (2) Tại khoản 1 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 (đã được sửa đổi bổ sung) quy định: “Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng”.
2 (i) Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6%/năm xuống 4,5%/năm; Lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,5%/năm xuống 3%/năm; Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN giảm từ 7%/năm xuống 5%/năm; (ii) Lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn dưới 6 tháng, tiền gửi KKH và kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1%/năm xuống 0,5%/năm, tiền gửi kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng giảm từ 6%/năm xuống 4,75%/năm; (iii) Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên giảm từ 5,5%/năm xuống 4%/năm.
3 Các công văn: số 4985/NHNN-CSTT ngày 27/6/2023 về giảm mặt bằng lãi suất và số 6385/NHNN-CSTT ngày 14/8/2023 về giảm lãi suất cho vay. Số 5152/NHNN-CSTT ngày 30/6/2023; số 282/HHNH-PLNV ngày 11/7/2023 kêu gọi TCTD tiếp tục đồng hành, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, người dân. Số 6936/NHNN-TD ngày 5/9/2023 về tăng cường công tác tín dụng, nâng cao khả năng tiếp cận, hấp thụ vốn tín dụng.
4 Đến ngày 20/12/2023, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới của các NHTM ở mức 3,9%/năm và 6,7%/năm.