Không dễ giảm chi cũng chẳng dễ tăng thu
Sự phục hồi chậm của nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới nguồn thu của NSNN
Tri Nhân
Hơn 10 năm nới lỏng tài khóa nhưng nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội vẫn không đến nơi đến chốn, mục tiêu đảm bảo cho tăng trưởng cũng không đạt được. Nguồn lực có hạn nhưng lại quá nhiều mục tiêu đặt ra và phân tán. Tình trạng này nếu không thay đổi, thì năm, bẩy năm nữa ngân sách sẽ khó đáp ứng được - PSG.TS. Nguyễn Công Nghiệp – nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính phát biểu tại Diễn đàn tài chính Việt Nam 2017 vừa được tổ chức.
NSNN đang bảo đảm an sinh cho 1/9 dân số
Là người trực tiếp điều hành tài chính công một thời gian dài, PGS.TS. Nguyễn Công Nghiệp cho rằng hơn 10 năm qua, Chính phủ đã thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng, và nguồn lực NSNN có hạn nhưng lại phân tán. Nới lỏng tài khóa nhưng không tạo ra tăng trưởng, thậm chí tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần ngược lại với tốc độ tăng chi tiêu công. Các yếu tố khác như năng lực cạnh tranh, cơ sở hạ tầng cải thiện cũng còn chậm.
Nới lỏng tài khóa không xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế mà xuất phát từ yêu cầu ổn định kinh tế - xã hội, đặc biệt là chi mạnh để đối phó với thực tế khiến cho các mục tiêu không đạt được. Nguồn lực có hạn nhưng lại phân tán và chạy theo quá nhiều mục tiêu và chi quá sức đang báo động cho sự bền vững của tài chính quốc gia. Tài khóa nới lỏng, chi ngân sách tăng liên tục và tăng cao nhưng không phải tăng chi cho đầu tư mà tăng chi thường xuyên. Trong chi thường xuyên lại tập trung nhiều cho an sinh xã hội vượt quá khả năng của ngân sách. Với 11 triệu người đang hưởng các khoản an sinh xã hội, tức là 1/9 dân số, là một con số không hề nhỏ với một quốc gia mà nguồn lực NSNN quá hạn hẹp.
Tài khóa nới lỏng thể hiện ở quy mô NSNN có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng GDP, chi NSNN có tốc độ tăng cao hơn tốc độ thu. Bội chi cũng có tốc độ tăng cao hơn tốc độ thu. Do đó nợ công cũng có tốc độ tăng cao hơn tất cả các yếu tố trên.
Nới lỏng tài khóa còn thể hiện ở các chính sách về miễn giảm thuế. Nhưng trong khi Nhà nước miệt mài giảm thuế, giãn thuế, giảm thuế suất để giảm chi phí, tạo điều kiện cho DN thì các cơ quan khác, các chính sách khác đang khiến cho chi phí của DN (cả chi phí chính thức lẫn phi chính thức ) ngày một tăng. Phần hỗ trợ DN được hưởng từ giãn, giảm thuế không bù nổi với các chi phí khác đang tăng lên, các khoản chi phí này đang bào mòn tích lũy của DN khiến DN khó đầu tư cho đổi mới công nghệ, tăng năng suất và ảnh hưởng trở lại đến nguồn thu ngân sách. “Đây là vấn đề lớn”, theo ông Nghiệp.
Theo số liệu của Bộ Tài chính tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN giảm từ mức bình quân 28,6% giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn 22,7% giai đoạn 2011 - 2016. Trước đây vốn chi cho đầu tư phát triển thì 50% là phần tiết kiệm có được, 50% là đi vay bây giờ thì phần lớn là vốn đi vay với lãi suất cao vì vay phần nhiều là qua phát hành trái phiếu. “Vốn đã ít nhưng quá trình đồng vốn từ NSNN xuống công trình vơi đi nhiều do thất thoát, lãng phí, sử dụng không hiệu quả. Có thể nói rằng việc đầu tư tạo ra GDP để kích thích đầu tư công không đạt được”, ông Nghiệp cho biết.
Cơ sở thu của NSNN
“Phải chặn đà chi thường xuyên. Nếu không thay đổi, nếu cứ chạy theo tăng chi thường xuyên với đà tăng chi quá nhanh như hiện nay, nếu không thay đổi thì năm, bẩy năm nữa NSNN không đáp ứng nổi”, ông Nghiệp nói.
Cái khó của việc tăng thu, theo TS. Đỗ Tất Cường, Viện Kinh tế (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) phân tích: Cơ sở của nguồn thu cho NSNN phụ thuộc vào mức độ phát triển của nền kinh tế và việc mở rộng cơ sở thuế cùng các khoản phí, lệ phí một cách hợp lý. Cơ sở thuế tùy thuộc vào những sắc thuế sẽ có sự mở rộng hoặc thu hẹp, ví dụ: Thuế giá trị gia tăng có thể áp dụng đối với tất cả các mặt hàng trong nền kinh tế nhưng phí đăng kiểm chỉ áp dụng đối với những người sở hữu xe ô tô; thuế thu nhập cá nhân chỉ áp dụng với những người có thu nhập lớn hơn một mức độ nhất định (theo quy định hiện hành là 9 triệu đồng/tháng). Việc xác định cơ sở thuế đối với từng sắc thuế rất quan trọng vì cơ sở thuế ảnh hưởng tới sự bền vững của các sắc thuế. Đối với các mức phí và lệ phí thì sự hợp lý của các mức phí và lệ phí sẽ đảm bảo không đặt gánh nặng tài chính cho người dân vì mỗi một người dân, dù ít dù nhiều, đều phải chịu ít nhất là thuế giá trị gia tăng. TS. Đỗ Tất Cường phát biểu và lưu ý “Cơ sở thu của NSNN ảnh hưởng lớn tới nguồn thu của NSNN”.
Trong cơ sở thu NSNN: Số lượng các DN đóng thuế cho NSNN giảm đi sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu (số DN đóng cửa ngừng hoạt động vẫn liên tục tăng). Số lượng hàng hóa tiêu thụ trên thị trường sẽ giảm nếu sức mua của người dân giảm cũng ảnh hưởng tới tổng số thuế thu được từ thuế giá trị gia tăng. Số lượng phương tiện vận tải lưu thông trên đường giảm cũng sẽ ảnh hưởng tới các khoản lệ phí thu được. Những con đường cao tốc và những trạm thu phí không hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn đầu tư từ NSNN và các khoản thu phí từ những khoản đầu tư này. Và tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ các chủ thể của nền kinh tế và toàn bộ các quan hệ kinh tế; điều đó có thể dẫn tới việc suy giảm cơ sở thu của thuế và nguồn thu ngân sách cũng giảm đi.
Sự phục hồi chậm của nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới nguồn thu của NSNN. Bởi việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô cũng là một điều kiện căn bản để phát triển kinh tế và do đó tăng tính ổn định của nguồn thu cho NSNN. Đến lượt nó, những khoản chi đầu tư cho cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng cũng sẽ được đảm bảo”.
Box: Kết quả của việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ sản xuất - kinh doanh đồng thời tăng chi đảm bảo an sinh xã hội đã làm giảm tỷ lệ động viên vào NSNN từ bình quân 26% GDP giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn 23% giai đoạn 2011 - 2016. Trong khi đó, tỷ trọng chi NSNN so với GDP không thay đổi (gần 30% GDP). Điều này dẫn đến thâm hụt ngân sách và nợ công ngày càng cao.
Cơ cấu chi ngân sách đã được thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng chi thường xuyên, chi cho con người, giảm tỷ trọng chi đầu tư phát triển.
Chi thường xuyên giai đoạn 2011 - 2016 bình quân ở mức 63% tổng chi NSNN, tăng hơn 8% so với giai đoạn 2006 - 2010. Trong chi thường xuyên thì chi cho giáo dục đào tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất (chiếm 23% tổng chi thường xuyên và 14,4% tổng chi NSNN năm 2016); sau đó là chi cho lương hưu và đảm bảo xã hội (chiếm 14,7% chi thường xuyên và 9% tổng chi NSNN); chi cho quản lý hành chính (chiếm 14% chi thường xuyên và 8,7% tổng chi NSNN) và chi cho y tế (chiếm 9% chi thường xuyên và 5,6% tổng chi NSNN).