Trong giai đoạn 2016 - 2020, TTCK Việt Nam chứng kiến những biến động mạnh của chỉ số VN-Index...
Tóm tắt:
Mặc dù Covid-19 đang ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, bài viết chỉ ra các cơ hội của nhà đầu tư Việt Nam trên thị trường chứng khoán (TTCK) trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, các nhóm khuyến nghị được đưa ra trên hai khía cạnh là nhà đầu tư cá nhân và các cơ quan quản lý nhà nước.
Từ khóa: Covid-19, cơ hội, nhà đầu tư, thị trường chứng khoán, VN-Index.
1. Đặt vấn đề
Trong giai đoạn 2016 - 2020, TTCK Việt Nam chứng kiến những biến động mạnh của chỉ số VN-Index. Thời điểm tháng 01/2016, khi VN-Index giao động quanh ngưỡng 550 điểm, sau hai năm tăng trưởng liên tục VN-Index đã đạt mốc 1.200 điểm vào tháng 4/2018. Mặc dù dịch Covid-19 khởi phát cuối năm 2019 đầu năm 2020 đã tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế, trong đó có Việt Nam nhưng nửa cuối năm 2020 và sang năm 2021, TTCK vẫn ghi nhận mức tăng tốt, trong đó VN-Index tăng gần 15% với điểm nhấn là dòng tiền chảy mạnh trong những phiên cuối năm. Theo thông lệ thông thường, khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn thì đầu tư sẽ chững lại; vậy, trong bối cảnh thị trường tăng như hiện nay, cơ hội của nhà đầu tư, đặc biệt nhà đầu tư cá nhân sẽ như thế nào?
2. Các khái niệm liên quan
2.1. Nhà đầu tư cá nhân
Là các nhà đầu tư mua và bán chứng khoán cho chính tài khoản của họ, chứ không phải cho một công ty hay một tổ chức nào khác. Các nhà đầu tư cá nhân thường là các nhà đầu tư nhỏ, họ thường mua một số lượng nhỏ cổ phần hoặc trái phiếu. (Bảng 1)
Bảng 1: So sánh nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân
2.2. Hành vi đầu tư
Hành vi đầu tư được định nghĩa là cách nhà đầu tư xem xét, dự báo, phân tích và xem xét các giai đoạn của việc ra quyết định, bao gồm: Tâm lý đầu tư, thu thập thông tin, nghiên cứu và phân tích. Toàn bộ quá trình này được gọi là “hành vi đầu tư” (Slovic, 1972; Slfredo and Vicente, 2010). Trong nghiên cứu này, việc thực hiện đầu tư là một dấu hiệu quan trọng đo lường sự đạt được mục đích đầu tư. Tác giả Sharpe khi nghiên cứu “Mô hình định giá tài sản vốn” (năm 1964) thừa nhận rằng, các nhà đầu tư không thích rủi ro luôn mong chờ lợi nhuận cao và họ đo lường rủi ro với độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi (Liu, Ping-we, 1993). Cơ hội đầu tư sẽ không có giá trị nếu không xảy ra hành vi đầu tư.
3. Bức tranh đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên TTCK Việt Nam
3.1. Giao dịch của nhà đầu tư cá nhân
Tại Việt Nam, nhà đầu tư cá nhân đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường trong suốt 20 năm qua. Trong giai đoạn 2016 - 2020, khối lượng và giá trị giao dịch của nhà đầu tư cá nhân luôn xoay quanh mức 80%. Mặc dù năm 2019, tỷ lệ này xuống thấp nhất (79%), nhưng lập tức quay trở lại 86% vào nửa cuối năm 2020 và 88% trong tháng 01/2021. Lượng suy giảm đầu năm 2020 là do những tác động đáng kể của dịch Covid -19.Trong năm 2021, tháng 02 có khối lượng giao dịch thấp nhất, nhưng sau đó đã bật tăng trở lại và các giao dịch rất sôi động vào cuối năm. (Bảng 2)
Bảng 2: Khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch của nhà đầu tư cá nhân 10 tháng năm 2021 (Nguồn: Finpro).
3.2. Số lượng tài khoản
Theo báo cáo cập nhật mới nhất từ Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD), tính đến cuối tháng 3/2021, tổng số tài khoản nhà đầu tư giao dịch chứng khoán trên thị trường Việt Nam đạt hơn 3,029 triệu, tăng 113.875 tài khoản so với tháng liền trước; trong đó, có trên 99,4% số tài khoản giao dịch chứng khoán mở mới được nhóm nhà đầu tư cá nhân trong nước đứng tên, tương đương 113.191 tài khoản mới. Đây cũng là lần đầu tiên số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán mở mới của nhà đầu tư cá nhân trong nước vượt mốc 100.000 tài khoản/tháng.
Trong đà tăng đó, tính chung 10 tháng năm 2021, đã có gần 1,09 triệu tài khoản của nhà đầu tư cá nhân mới tham gia thị trường. Tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài đang là 371 tài khoản, tăng 30 tài khoản so với tháng trước đó. (Hình 1)
Hình 1: Số lượng tài khoản của nhà đầu tư cá nhân mở mới giai đoạn 2017 – 2021 (Nguồn: VSD).
3.3. Thời gian nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư cá nhân ngắn lại
Trong thời gian từ tháng 01/2020 đến tháng 01/2021, khối lượng giao dịch trung bình của thị trường mỗi tháng lên đến 11.700 triệu cổ phiếu, tăng hơn 2 lần so với năm 2019; đặc biệt, khi VN-Index tiếp cận đỉnh cũ 1.200 điểm thì khối lượng giao dịch đạt mức kỷ lục trên 20.000 triệu cổ phiếu mỗi tháng. Trong năm 2021, duy có tháng 02 là khối lượng giao dịch trung bình xuống thấp, các tháng còn lại đều trên 11.000 cổ phiếu.
Sự tăng lên của khối lượng có thể từ hai nguyên nhân: (i) Xuất hiện dòng tiền mới; hoặc (ii) Vòng quay tăng lên do thời gian nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu giảm xuống.
Tổng tài sản do các công ty chứng khoán nắm giữ không có sự gia tăng đột biến nào (khoảng 150 ngàn tỷ đồng trong năm 2019 và 169 ngàn tỷ đồng trong quý III/2020). Tốc độ tăng tài sản từ các công ty chứng khoán có thể được xem như lượng tiền mới nhà đầu tư đang đổ vào thị trường. Tốc độ tăng của tổng tài sản thấp hơn tốc độ tăng trong khối lượng giao dịch hàm ý vòng quay của cổ phiếu đang tăng, hay nhà đầu tư đang giảm thời gian nắm giữ cổ phiếu trong danh mục xuống. Ví dụ, nếu trong năm 2019, nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu trong 30 ngày thì ở thời điểm hiện tại, thời gian này rút ngắn xuống có thể là 15 - 20 ngày. Giao dịch liên tục làm cho khối lượng và giá trị giao dịch tăng lên đáng kể.
Sự tăng trưởng TTCK trong hai năm 2020 và 2021 bất chấp đại dịch Covid-19 có thể giải thích bởi một số lý do sau:
Thứ nhất, đại dịch Covid-19 đã tác động nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, nhiều doanh nghiệp cắt giảm nhân công, thu hẹp hoạt động kinh doanh và đầu tư. Nhìn ở góc độ tiêu cực, dịch bệnh và các lệnh phong tỏa, giãn cách làm người dân cả nước phải ở nhà nhiều hơn; tuy nhiên, đó lại là thuận lợi vì họ có quá nhiều thời gian rảnh rỗi muốn tìm kiếm thêm thu nhập thì khó tìm được kênh đầu tư nào tiện lợi hơn chứng khoán. Nhà đầu tư chỉ ngồi nhà là tìm hiểu được hầu hết thông tin về các cổ phiếu mà mình quan tâm và có thể đặt lệnh online hoặc gọi điện cho nhân viên môi giới của công ty chứng khoán để đặt lệnh. Đây được gọi là hiệu ứng Tina (There is no alternative - không có lựa chọn nào tốt hơn).
Thứ hai, Việt Nam cũng thực hiện điều chỉnh các loại lãi suất điều hành để hỗ trợ nền kinh tế, mặt bằng lãi suất giảm khiến các kênh đầu tư an toàn như gửi tiết kiệm trở nên kém hấp dẫn vì có mức sinh lời thấp. Do đó, cổ phiếu trở nên hấp dẫn so với các kênh đầu tư truyền thống. TTCK thường được xem là tấm gương phản ánh nền kinh tế: Khi kinh tế tốt thì TTCK đi lên và ngược lại, khi kinh tế suy thoái thì TTCK đi xuống. Thế nhưng, Covid-19 đã làm thay đổi tất cả, trong khi kinh tế Mỹ và nhiều nước rơi vào suy thoái thì chứng khoán lại tăng trưởng.
Thứ ba, hiệu ứng Tina xuất hiện ở Việt Nam năm 2020 khiến cho VN-Index nhanh chóng vượt 1.100 điểm và hướng tới 1.200 điểm. Nhưng mốc 1.200 điểm ở năm 2021 khác xa với 1.200 điểm năm 2007. Thời điểm năm 2007, tuy cũng có tình trạng nhà nhà, người người nói về chứng khoán, nhưng lượng vốn vào thị trường vẫn không quá đột biến so với giai đoạn trước đó, số lượng doanh nghiệp niêm yết và quy mô TTCK khi ấy còn nhỏ so với nền kinh tế. Giai đoạn 2020 - 2021, đặc biệt nửa cuối năm 2021, dòng tiền chảy vào chứng khoán khiến giá nhiều cổ phiếu tăng liên tục làm cho những người chậm chân càng thấy sốt ruột hơn và hiệu ứng Fomo (Fear of missing out - hội chứng sợ bỏ lỡ) phát huy tác dụng không chỉ với từng cổ phiếu riêng lẻ mà với toàn bộ TTCK.
Thứ tư, việc nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu trong thời gian ngắn cũng khá dễ hiểu; bởi trước những diễn biến bất thường của dịch Covid -19, nền kinh tế cũng như TTCK thế giới cũng như trong nước đều có thể xuất hiện những biến động bất thường. Việc nhanh chóng tham gia và bán cổ phiếu để thu lời trong ngắn hạn nhằm giảm thiểu rủi ro trước diễn biến thị trường là tâm lý chung của nhiều nhà đầu tư.
4. Cơ hội của nhà đầu tư cá nhân trên TTCK dưới tác động của đại dịch Covid-19
4.1. Còn nhiều dư địa tăng trưởng cho TTCK
Dịch bệnh được kiểm soát, nền kinh tế dần hồi phục. Ngoài ra, các đợt tiêm chủng vắc-xin đã bắt đầu tại hầu hết các thị trường trong khu vực, giúp củng cố lòng tin của nhà đầu tư.
Sự xuất hiện của lớp nhà đầu tư mới gia nhập thị trường (F0) là phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh dịch Covid-19, người dân đa dạng các kênh đầu tư bằng cách giữ một chút tiền mặt, vàng và còn lại là cổ phần doanh nghiệp. Hiện nay, theo thống kê, một nửa dân số Mỹ trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia đầu tư chứng khoán; trong khi đó, Việt Nam còn đang phấn đấu năm 2025 đạt mức 5% dân số mở tài khoản chứng khoán, dư địa tăng vẫn còn nhiều.
Hiệu ứng Tina và Fomo trên TTCK năm 2020 - 2021 có thể sẽ tiếp diễn mạnh hơn ở năm 2022. Dòng tiền từ kênh tiết kiệm đang đổ dồn vào chứng khoán. Khi đã hình thành một xu hướng thì sẽ không dễ đảo ngược, trừ phi xuất hiện yếu tố đột biến đủ lớn.
4.2. Hàng hóa trên thị trường tăng, bất chấp ảnh hưởng của dịch Covid-19
Cùng với sự tăng trưởng của cổ phiếu, triển vọng kinh tế toàn cầu được cải thiện và tiến triển trong việc tiêm vắc-xin Covid-19 đã thúc đẩy tỷ suất sinh lời của trái phiếu tại khu vực Đông Á mới nổi. Thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam tăng 8,1% so với quý trước, đạt 71 tỷ USD vào cuối tháng 12/2020, bởi sự gia tăng đều đặn ở cả hai mảng trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp.
Theo Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam, trong năm 2020, thị trường đón nhận thêm tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành là 368.000 tỷ đồng, tăng 24% so với năm 2019, đặc biệt trái phiếu xanh đang là xu thế và mở ra kênh huy động vốn mới cho các dự án đầu tư dài hạn. Lũy kế 9 tháng năm 2021, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã tổ chức 145 đợt đấu thầu, huy động được 248.738 tỷ đồng.
4.3. Tính thanh khoản của thị trường cao
Thanh khoản tăng mạnh là điểm nhấn của TTCK Việt Nam trong năm 2020. So với cùng kỳ năm 2020, thanh khoản thị trường năm 2021 ghi nhận sự tăng trưởng cao với khối lượng giao dịch bình quân phiên tăng 129,4% và giá trị giao dịch bình quân phiên tăng hơn 204%. Dòng tiền mới từ nhà đầu tư “F0” mang đến thanh khoản cao cho TTCK. Các dòng vốn từ các quỹ hoán đổi danh mục (ETF) cũng tác động tích cực đến TTCK Việt Nam trong năm 2020. Ngoài các quỹ ETF quen thuộc như VFM VN 30 hay VNM ETF, sự bùng nổ của các quỹ ETF nội cũng cho thấy được sức hấp dẫn của TTCK Việt Nam. (Hình 2 và Bảng 3)
ĐVT: Tỷ đồng
Hình 2: Thanh khoản bình quân mỗi phiên trên sàn giao dịch chứng khoán HOSE (Nguồn: CafeF.vn).
Bảng 3: Nhóm top 5 cổ phiếu có khối lượng giao dịch, giá trị giao dịch và giá trị giao dịch mua ròng lớn nhất (Nguồn: Thống kê từ HNX).
Tính thanh khoản cao của thị trường do: Nền kinh tế Việt Nam năm 2021 được đánh giá là có cơ hội phục hồi cao hơn so với nhiều nước khác nhờ công tác quản lý, kiểm soát tốt đại dịch Covid-19. Việt Nam cũng có nhiều khả năng hưởng lợi từ sự dịch chuyển hiện nay của các chuỗi cung ứng sang những quốc gia có chi phí sản xuất thấp. Bên cạnh đó, nội tại TTCK trong nước năm 2021 sẽ có nhiều thay đổi tích cực về chất; yếu tố nội tại của doanh nghiệp niêm yết cũng tương đối tốt. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết theo báo cáo tài chính quý IV/2020 ghi nhận 82% doanh nghiệp có lãi.
Thống kê của VnDirect, tính đến ngày 22/10/2021, 162 công ty đã công bố kết quả kinh doanh, tương ứng với 9% tổng số cổ phiếu và 8% tổng vốn hóa toàn thị trường. Tổng lợi nhuận của các công ty đã công bố kết quả tăng 28,3% so với cùng kỳ cho quý III/2021 và 47,4% so với cùng kỳ 9 tháng đầu năm 2021. (Hình 3)
Hình 3: Tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận ròng theo quý toàn thị trường (Nguồn: vneconomy.vn).
5. Một số khuyến nghị
5.1. Đối với nhà đầu tư cá nhân
Thứ nhất, cẩn trọng hơn với rủi ro: Tình hình dịch bệnh
Covid-19 đang khá nghiêm trọng kể từ cuối tháng 4/2021. Mặc dù Việt Nam kiểm soát dịch bệnh khá tốt, tuy nhiên điều này không cam kết sự an toàn với những diễn biến bất thường của các chủng Covid-19 mới. Nếu tình hình Covid-19 nghiêm trọng hơn tại Việt Nam và trên thế giới, những tác động tiêu cực tới nền kinh tế là không tránh khỏi. Tâm lý đám đông, hiệu ứng Tina hay Fomo đôi khi khiến người ta quên mất việc phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên, thị trường đang lên là lúc thị trường cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
Thứ hai, cập nhật các kiến thức tài chính, nâng cao tính chuyên nghiệp nhà đầu tư trên TTCK (đặc biệt đầu tư cá nhân): Phần lớn nhà đầu tư F0 còn hạn chế về kiến thức tài chính, do đó dễ gặp rủi ro trong quá trình đầu tư ban đầu, tính chuyên nghiệp cũng chưa cao. Để nắm bắt được cơ hội đầu tư, mỗi nhà đầu tư cá nhân cần trang bị kiến thức tài chính căn bản, hiểu về TTCK cũng như bối cảnh đầu tư.
Thứ ba, cẩn trọng với bong bóng chứng khoán: Chưa có dấu hiệu rõ ràng, nhưng dòng tiền đổ vào chứng khoán lớn trong thời gian qua rất dễ tạo nên bong bóng cho chứng khoán. Việc quá nhiều nhà đầu tư tham gia trong thời gian ngắn với lượng tiền lớn dễ đẩy giá chứng khoán lên khỏi giá trị thật. Tâm lý lướt sóng sẽ không bền mà nên kết hợp cả những mã cổ phiếu nắm giữ lâu dài.
Thứ tư, cẩn trọng với margin (đòn bẩy tài chính) cao: Hiện nay, margin đang ở mức cao, một số công ty chứng khoán đã vượt trần cho vay ký quỹ. Theo thống kê, hơn 30 công ty chứng khoán trên thị trường tính đến ngày 31/3/2021, đã cho nhà đầu tư vay hơn 110.000 tỷ đồng, là mức cao kỷ lục của chứng khoán Việt Nam. Margin cao sẽ tiềm ẩn rủi ro lớn khi thị trường điều chỉnh. Nhà đầu tư chỉ nên sử dụng margin khi có dòng tiền ổn định cho gia đình.
5.2. Đối với cơ quan nhà nước
Thứ nhất, tích cực triển khai các giải pháp hỗ trợ TTCK trong ảnh hưởng đại dịch Covid-19: Nếu dịch Covid-19 phức tạp hơn, việc hạn chế đi lại và giãn cách xã hội là điều bắt buộc, do đó cần cắt giảm các thủ tục hành chính, xây dựng phương án làm việc online... để thị trường vẫn đảm bảo lưu thông dòng tiền trong toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ cần ban hành các văn bản hoặc hướng dẫn về cách thức ứng phó với tác động của đợt bùng phát dịch, cũng như các biện pháp cụ thể nhằm khôi phục hoạt động của thị trường và hạn chế việc giảm giá một cách hỗn loạn. Cần tăng cường sự chủ động và sự chuẩn bị sẵn sàng cả từ phía cơ quan quản lý, cơ quan giám sát và các định chế tài chính có vai trò rất quan trọng, trong đó cần lưu ý xây dựng các kế hoạch đảm bảo duy trì hoạt động và cung cấp dịch vụ tài chính cũng như có kế hoạch, phương án quản lý rủi ro có thể phát sinh trong bối cảnh dịch bệnh.
Thứ hai, tăng cường vai trò của đại lý đầu tư, tư vấn chuyên nghiệp, các quỹ mở, cổ phiếu và trái phiếu được vận hành bởi các quỹ đầu tư uy tín để đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư cá nhân…
Thứ ba, tăng cường đầu tư cho công nghệ, đảm bảo hệ thống cơ sở hạ tầng, kiểm soát rủi ro trong điều kiện làm việc từ xa làm tăng nguy cơ rủi ro an ninh mạng. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng các nhà đầu tư đã làm cho sàn giao dịch thường xuyên bị quá tải, nghẽn lệnh sẽ cản trở thị trường tăng trưởng. Trong bối cảnh kinh tế số, tài chính số phát triển ngày càng mạnh mẽ, Việt Nam cần có những bước tiến mạnh mẽ hơn về thể chế, công nghệ, nguồn nhân lực, mức độ chuyên nghiệp, minh bạch, khả năng chống chịu, ứng phó với các cú sốc bên ngoài. Bên cạnh đó, việc các tổ chức, cá nhân phải chuyển sang làm việc tại nhà và chuyển phần lớn hoạt động kinh doanh của mình sang nền tảng kỹ thuật số đã làm tăng đáng kể nguy cơ bị tấn công mạng, khiến các giao dịch và công tác quản trị trở nên rủi ro hơn. Vì vậy, các cơ quan giám sát, các nhà quản lý cần đảm bảo truy cập từ xa an toàn và bảo vệ quyền truy cập vào các hệ thống giao dịch; đồng thời, yêu cầu các thành viên thị trường có những biện pháp tương tự để đảm bảo an toàn trước rủi ro an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư cũng như an toàn của hệ thống.
Thứ tư, đảm bảo tính minh bạch của thị trường ở hai khía cạnh: (i) Yêu cầu các thành viên thị trường cung cấp thông tin kịp thời đối với các sự kiện bất thường. Các yêu cầu công bố thông tin đối với các tổ chức phát hành là đặc biệt quan trọng trước tác động của đại dịch Covid-19 đối với doanh thu và lợi nhuận của công ty. Các cơ quan quản lý cũng đang phải đối phó với tình trạng chậm công bố thông tin, báo cáo và các vấn đề khác ảnh hưởng đến các công ty đại chúng và các tổ chức được giám sát. (ii) Cung cấp thông tin rõ ràng và kịp thời cho các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm về các rủi ro thị trường. Việc các cơ quan quản lý chủ động cung cấp hướng dẫn và giải thích về các biện pháp nghiệp vụ như ngắt mạch, ngừng giao dịch… cho nhà đầu tư sẽ góp phần tránh áp lực giao dịch bán tháo.
Thứ năm, nâng cao năng lực giám sát của cơ quan giám sát: Các cơ quan nhà nước cần nâng cao năng lực giám sát thông qua việc xác định các rủi ro trọng yếu (rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro thanh toán, rủi ro an ninh mạng…), cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ khả năng giám sát từ xa trong trường hợp dịch bệnh phức tạp hơn; tăng cường tần suất giám sát thông qua việc quy định cung cấp thông tin tài chính một cách đầy đủ và liên tục; tăng cường phối hợp giám sát thông qua việc chia sẻ thông tin.
Tài liệu tham khảo:
1. TS. Trần Thị Vân Anh, Yếu tố tâm lý tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Thị trường tài chính - tiền tệ (02/8/2021).
2. Báo cáo của NEU-JICA, Báo cáo các chính sách ứng phó với Covid-19 và các khuyến nghị, 2020.
3. A Gurbaxani (2021), A study on the impact of Covid-19 on investor behaviour of individuals in a small town in the state of Madhya Pradesh, India.
4. Agustin Carstens (2020), Supervisory priorities in the age of covid and beyond, asba-bcbs-fsi high-level virtual session.
5. Antonio Pancorbo at all (2020), Supervisory actions and priorities in response to the Covid-19 pandemic crisis, special series on financial policies to respond to covid-19.
6. https://www.vsd.vn/vi/ad/76077: Trang web của VSD.
7. http://www.ssc.gov.vn: Trang web của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
TS. Trịnh Thị Phan Lan (Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội)
Theo Tạp chí ngân hàng