Trong 2 tháng đầu năm 2016, hoạt động xuất nhập khẩu có tín hiệu tích cực, cán cân thương mại thặng dư với tổng mức xuất siêu 865 triệu USD nhưng kim ngạch nhập khẩu nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất giảm đang phát tín hiệu không mấy khả quan về tình hình sản xuất trong nước và triển vọng xuất khẩu trong những tháng tới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước trong 2 tháng đầu năm 2016 ước đạt trên 46,46 tỷ USD, giảm 1,46% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 23,66 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu đạt gần 22,8 tỷ USD, giảm 6,6%.
Trong số này, tổng giá trị xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước đạt 7,1 tỷ USD, tăng 4,2%; giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,6 tỷ USD (kể cả dầu thô), tăng 2,3%. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu của đa số các mặt hàng chủ lực đều tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 4,3 tỷ USD, tăng 2,5%; hàng dệt may đạt 3,6 tỷ USD, tăng 12,4%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 2,4 tỷ USD, tăng 6,2%; giày dép đạt 1,9 tỷ USD, tăng 7,3%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1 tỷ USD, tăng 3,4%; thủy sản đạt 903 triệu USD, tăng 7,7%; gạo đạt 427 triệu USD, tăng 92,5%; rau quả đạt 319 triệu USD, tăng 39%. Một số mặt hàng có kim ngạch giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, bao gồm, dầu thô đạt 250 triệu USD, giảm 63%; sắt thép đạt 221 triệu USD, giảm 21,3%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 172 triệu USD, giảm 28,8%; hạt tiêu đạt 160 triệu USD, giảm 21,1%.
Ngược với xu hướng thâm hụt và nhập siêu trong các tháng đầu năm trước đây, cán cân thương mại tiếp tục thặng dư tháng thứ hai liên tiếp, tính chung hai tháng đầu năm 2016 xuất siêu 865 triệu USD. Cùng với nguồn thu từ dịch vụ tiếp tục tăng lên đã góp phần giảm áp lực căn thẳng lên tỷ giá giữa VND và USD.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm nay, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 5,1 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Liên minh châu Âu (EU) đạt 4,7 tỷ USD, tăng 6,4%; khu vực ASEAN đạt 2,5 tỷ USD, giảm 12,3%; Trung Quốc đạt 2,3 tỷ USD, tăng 3,5%; Nhật Bản đạt 2,1 tỷ USD, tăng 4,1%; Hàn Quốc đạt 1,3 tỷ USD, tăng 15,1%.
Về hoạt động nhập khẩu, tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước đạt 9,2 tỷ USD, giảm 4,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13,6 tỷ USD, giảm 7,7%. Đáng chú ý là, kim ngạch nhập khẩu nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị và phụ tùng khác đạt 3,8 tỷ USD, giảm 13,6%; điện thoại và linh kiện đạt 1,5 tỷ USD, giảm 7,6%; sắt thép đạt 993 triệu USD, giảm 8,2%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 594 triệu USD, giảm 9,6%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ như: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 3,8 tỷ USD, tăng 5,7%; vải đạt 1,4 tỷ USD, tăng 2%; kim loại thường đạt 632 triệu USD, tăng 23,1%; chất dẻo đạt 615 triệu USD, tăng 14,4%.
Trong 2 tháng đầu năm, hoạt động nhập khẩu từ hầu hết các thị trường chủ yếu đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhập khẩu từ Trung Quốc ước tính đạt 7 tỷ USD, giảm 5,6%, nên mức nhập siêu từ thị trường này chỉ còn khoảng 4,7 tỷ USD, giảm 9,6%. Nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 3,9 tỷ USD, giảm 4,8%; khu vực ASEAN đạt 3,2 tỷ USD, giảm 7,6%; Nhật Bản đạt 1,9 tỷ USD, giảm 9,5%; EU đạt 1,3 tỷ USD, giảm 26,6%; Hoa Kỳ đạt 1 tỷ USD, giảm 4,2%.
Kết quả trên đây cho thấy, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong hai tháng đầu năm 2016 có vẻ trầm lắng so với cùng kỳ những năm trước đây. Trong hai tháng đầu năm 2015, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 47,15 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, xuất khẩu đạt 22,97 tỷ USD, tăng 8,4%; nhập khẩu đạt trên 24,18 tỷ USD, tăng 21,9%, cán cân thương mại thâm hụt 1,21 tỷ USD). Trong hai tháng đầu năm 2014, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 41,88 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước (kim ngạch xuất khẩu đạt trên 21,06 tỷ USD, tăng 12,3%; nhập khẩu đạt 20,82 tỷ USD, tăng 17,0%; cán cân thương mại thặng dư 140 triệu USD), v.v.
Do Việt Nam là một quốc gia phụ thuộc vào xuất khẩu và chủ yếu thông qua hoạt động gia công các nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, nên nhập khẩu giảm đang phát tín hiệu xấu về triển vọng xuất khẩu và tình hình sản xuất trong những tháng tới đây. Trong hai tháng đầu năm 2016, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp chỉ tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước, trong khi chỉ tiêu này trong hai tháng đầu năm 2015 là 12%. Tương tự, chỉ số quản lý sức mua PMI cũng chỉ dao động quanh mức 50 điểm trong nhiều tháng qua. Hơn nữa, hoạt động nhập khẩu từ các thị trường chủ yếu trên thế giới đều giảm sút, chứ không chỉ riêng nhập khẩu từ Trung Quốc. Tuy nhiên, nhập khẩu từ Trung Quốc giảm đã khiến nhiều doanh nghiệp thiếu nguồn nguyên liệu nhưng chưa tìm được nguồn nguyên liệu và thị trường mới để thay thế, buộc doanh nghiệp phải cắt giảm sản lượng và hạn chế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ những thị trường khác. Bên cạnh các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu thụ trong nước cũng phụ thuộc nặng nề vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, và khi kinh tế Trung Quốc gặp khó khăn sẽ gây tác động tiêu cực đến nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Những chỉ số kinh tế này cho thấy, quá trình phục hồi kinh tế đang có dấu hiệu chững lại.
Ngoài ra, theo truyền thống, hai tháng đầu năm gắn liền với kỳ nghỉ Tết kéo dài, nên hoạt động sản xuất, kinh doanh kém sôi động, nhưng thường vẫn tăng hai con số so với cùng kỳ những năm trước. Trong khi đó, xuất khẩu trong hai tháng đầu năm 2016 chỉ tăng vỏn vẹn 2,9%, thậm chí nhập khẩu lại giảm sút tới 6,6%. Nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay là do kinh tế toàn cầu tăng thấp, các tổ chức kinh tế quốc tế phải liên tục điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu. Gần đây nhất, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2016 từ mức 3,3% xuống còn 3%. Trong đó, giá dầu liên tục lao dốc đã gây tác động tiêu cực đến hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Do giá cả nhiều mặt hàng không giảm tương ứng với giá dầu và các loại hàng hóa chủ chốt, nên nhu cầu tiêu dùng yếu ớt. Giá cả giảm thấp đang tạo ra nguy cơ giảm phát, trái ngược với xu hướng lạm phát trong những năm sau khủng hoảng, khi nhiều nước chạy đua phá giá bản tệ để hỗ trợ xuất khẩu. So với lạm phát, giảm phát là căn bệnh khó chữa và có thể gây tác động lâu dài đến triển vọng kinh tế toàn cầu.
Vấn đề đáng quan tâm là xu hướng giảm tốc của kinh tế Trung Quốc đã gây tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế toàn cầu, các nhà đầu tư tìm cách rút vốn khỏi thị trường chứng khoán để bảo toàn tài sản. Do nhân dân tệ không ổn định, nên các doanh nghiệp rất thận trọng khi tiến hành các hoạt động thương mại với doanh nghiệp Trung Quốc và có xu hướng chuyển sang hoạt động theo kế hoạch ngắn hạn, tùy thuộc vào các đơn đặt hàng của các đối tác kinh tế.
Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức được những khó khăn khi làm ăn với đối tác Trung Quốc, nhưng việc Việt Nam mới ký kết các hiệp định thương mại tự do với EU và Hiệp định Đối tác thương mại xuyên Thái bình dương mới chỉ tạo ra tia hy vọng ban đầu, tác động tích cực của những hiệp định thương mại này còn phụ thuộc vào những đối sách kinh tế của Chính phủ Việt Nam.
Nhìn chung, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đang chịu tác động tiêu cực của xu hướng giảm tốc của hầu hết các nền kinh trên thế thế giới, điều này đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị. Trong đó, cần có biện pháp kiểm soát giá cả nhằm khuyến khích tiêu dùng trong nước, đồng thời đẩy mạnh các ngành công nghiệp phụ trợ để giảm dần sự lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Mặt khác, cần đẩy nhanh các bước và lộ trình thực thi các hiệp định thương mại đã ký kết, tăng cường việc xúc tiến thương mại, giúp các doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường và tận dụng những lợi thế do các hiệp định mang lại, trọng tâm là cải cách thể chế. Đây là những yếu tố quan trọng có tác dụng tạo ra sự cân bằng cung cầu trong nước, góp phần ngăn ngừa những tác động tiêu cực từ bên ngoài trong bối cảnh tình hình quốc tế đang có nhiều biến động khó lường.
Xuân Thanh