Năm 2025, Viện Nghiên cứu Kinh tế khu vực Đông Nam Á và Đông Á (ERIA) công bố Báo cáo tóm tắt chính sách (Policy Brief) đã chỉ ra những thách thức hàng đầu trong việc đảm bảo kết nối liên thông cho các giao dịch thanh toán số xuyên biên giới cũng như nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hài hòa, cân bằng các quy định pháp lý, tăng cường hợp tác liên ngành và duy trì các biện pháp an toàn, bảo mật mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động thanh toán số tăng trưởng và tích hợp liền mạch trong khu vực.
Bối cảnh thanh toán số khu vực ASEAN
Theo ERIA, trong những năm gần đây, thanh toán số tại khu vực ASEAN chứng kiến mức tăng trưởng nhanh, chiếm chiếm hơn 50% tổng số lượng giao dịch và dự kiến sẽ đạt mức 416,6 tỷ USD vào năm 2028. Sự mở rộng của thanh toán số trong khu vực góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện, thương mại điện tử và hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (SMEs). Năm 2021, thanh toán số chiếm 82% doanh thu từ dịch vụ tài chính số của khu vực ASEAN. Đến năm 2023, thanh toán số chiếm hơn 50% giao dịch và đạt khoảng 286,8 tỷ USD vào năm 2024 và đạt 416,6 tỷ USD vào năm 2028. Trong đó, Ví điện tử đã góp phần thúc đẩy các giao dịch thương mại điện tử, đáng chú ý ở thị trường Việt Nam và Indonesia với lần lượt 25% và 39% giá trị giao dịch. Tại thị trường Philippines, ứng dụng Maya tích hợp thanh toán số với các dịch vụ của ngân hàng Maya và các dịch vụ của PayMaya về tiền mã hóa, đầu tư vi mô và bảo hiểm…
Sự phát triển bùng nổ của thanh toán số và các yếu tố như đang đặt ra những thách thức nhất định cho các quốc gia ASEAN trong việc phát triển thanh toán số. Để giải quyết vấn đề nêu trên, ASEAN đã đưa ra hàng loạt các sáng kiến, bao gồm: Tuyên bố về thúc đẩy kết nối thanh toán khu vực và thúc đẩy giao dịch đồng nội tệ; Bản ghi nhớ hợp tác (được ký kết bởi 8 quốc gia thành viên ASEAN) đối với Khung chính sách thanh toán ASEAN cho thanh toán bán lẻ xuyên biên giới, trong đó đẩy mạnh thanh toán bằng mã QR xuyên biên giới (đã triển khai tại Campuchia, Lào, Malaysia, Thái Lan, Singapore và Việt Nam) và đang trong quá trình xúc tiến kết nối thanh toán xuyên biên giớivới HongKong, Ấn Độ và Nhật Bản.
Song song với những nỗ lực này, ASEAN đã thiết lập một khuôn khổ giao dịch đồng nội tệ để đẩy mạnh hơn nữa việc sử dụng rộng rãi hơn các loại đồng nội tệ trong khu vực nhằm giải quyết các thách thức, bao gồm việc phụ thuộc vào đồng USD trong thanh toán xuyên biên giới, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ; quy định phân mảnh, hay việc ứng dụng công nghệ số chưa đồng đều giữa các quốc gia… thông qua một Thỏa thuận khung kinh tế số (DEFA) nhằm thúc đẩy thanh toán số hiệu quả, hỗ trợ hòa nhập tài chính và hội nhập kinh tế khu vực, hướng tới sự tham gia của các nước thành viên ASEAN và mở rộng sang các đối tác khác ngoài khu vực.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Thách thức trong tích hợp thanh toán số
Thực tế là ngay cả khi có những sáng kiến này thì việc hoàn thành kết nối thanh toán số liền mạch trên toàn khu vực vẫn còn là thách thức rất lớn. Đến tháng 4/2024, 9 nước thành viên ASEAN đã áp dụng chuẩn tin điện ISO 20022 cho hệ thống thanh toán bán lẻ, 8 quốc gia thành viên ASEAN đã thiết lập các kênh thanh toán bằng QR quốc gia làm điều kiện tiên quyết về công nghệ cho thanh toán xuyên biên giới kết nối liên thông. Các nước thành viên ASEAN còn lại vẫn đang trong quá trình áp dụng ISO 20022 và mã QR quốc gia, hạn chế việc tích hợp vào khung Mã QR liên thông trong khu vực. Một số rào cản, thách thức chính bao gồm:
Thứ nhất, tuy các giao dịch thanh toán bằng mã QR liên thông hiện tại tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch giữa người dùng và người bán, nhưng việc mở rộng khả năng tương tác giữa người bán và người bán vẫn còn nhiều trở ngại, đòi hỏi các giao thức được chuẩn hóa và sự hợp tác của nhà cung cấp dịch vụ tài chính số để đảm bảo các giao dịch xuyên biên giới diễn ra liền mạch, thông suốt.
Thứ hai, việc đảm bảo an ninh, an toàn trong việc triển khai và sử dụng hiệu quả thanh toán số đóng vai trò rất quan trọng. Trong đó dữ liệu cá nhân của người tiêu dùng phải được bảo vệ để giảm thiểu tối đa nguy cơ lộ, lọt thông tin cá nhân, sử dụng sai dữ liệu và phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, để ngăn ngừa gian lận và đảm bảo an ninh, an toàn, các nhà cung cấp dịch vụ tài chính số phải triển khai các biện pháp mã hóa nâng cao, xác thực đa yếu tố và giáo dục người tiêu dùng. Việc tuân thủ Luật bảo vệ dữ liệu, đảm bảo các điều khoản minh bạch, rõ ràng và thiết lập cơ chế giải quyết khiếu nại hiệu quả cũng rất cần thiết đối với các nhà cung cấp dịch vụ.
Thứ ba, các cơ quan quản lý phải đối mặt với những hạn chế chung trong việc phát triển hệ sinh thái số trong ngắn hạn, bao gồm năng lực tổ chức triển khai, vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng… Bức tranh thanh toán số ngày càng bị phân mảnh bởi nhiều quy định khác nhau, như giới hạn sở hữu nước ngoài, giới hạn về hạn mức và số dư ví điện tử và yêu cầu vốn tối thiểu. Hơn nữa, việc sử dụng dữ liệu lớn ngày càng tăng của công nghệ tài chính vẫn chưa được giải quyết đầy đủ, do các Chính phủ và NHTW vẫn đang tìm hiểu những tác động pháp lý và đánh giá tác động chính sách. Mặc dù các quy định này bảo vệ lợi ích công và sự ổn định tài chính, nhưng cần phải minh bạch và dễ tiếp cận đối với các nhà cung cấp dịch vụ tài chính số để cân bằng giữa bảo mật với thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập tài chính.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý đối với thanh toán số trên thế giới cũng như trên bình diện khu vực ASEAN có cách tiếp cận pháp lý và phản ứng chính sách. Chẳng hạn, mô hình dựa trên quy tắc (rules-based model) của Ngân hàng Dữ trữ Ấn Độ (RBI) đảm bảo tính thống nhất nhưng lại thiếu linh hoạt, trong khi các mô hinh dựa trên nguyên tắc (principles-based model) có tính linh hoạt hơn được EU và Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore (MAS) sử dụng, cho phép triển khai linh hoạt nhưng có thể không nhất quán. Trong khi đó, Vương quốc Anh tiếp cận dựa trên quy tắc đối với khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2028 bao gồm việc đối mới dịch vụ thanh toán theo thời gian thực và phát triển sáng kiến Kiến trúc Thanh toán mới (New Payment Architecture) nhằm tăng cường khả năng kết nối liên thông trong thanh toán toàn cầu thông qua áp dụng chuẩn tin điện ISO 20022. Sáng kiến này cũng bao gồm các cải tiến khác như sáng kiến thanh toán toàn cầu (GPI) của SWIFT giúp cải thiện khả năng kiểm soát và tính minh bạch trong thanh toán quốc tế, giảm thời gian xử lý các giao dịch.
Khuyến nghị chính sách
Tại ASEAN, việc áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quy tắc so với dựa trên nguyên phụ thuộc vào các cấu trúc kinh tế, hệ thống pháp luật, điều kiện và trình độ phát triển đa dạng của từng quốc gia. Phương pháp tiếp cận dựa trên quy tắc sẽ đưa ra các hướng dẫn rõ ràng, giảm thiểu việc diễn giải sai lệch và mang lại lợi ích cho các quốc gia thành viên ASEAN có năng lực quản lý yếu hơn bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn về an ninh, bảo vệ người tiêu dùng khả năng kết nối liên thông. Ngược lại, phương pháp tiếp cận dựa trên nguyên tắc sẽ khuyến khích đổi mới sáng tạo và thích ứng linh hoạt với các hoàn cảnh thay đổi, phù hợp với các quốc gia thành viên ASEAN phát triển hơn với các thể chế quản lý mạnh mẽ, cơ sở hạ tầng đổi mới, từ đó hỗ trợ đổi mới sáng tạo và tích hợp các giải pháp thanh toán số mới. Một mô hình kết hợp (hybrid model) là hoàn hảo nhất cho các quốc gia để đảm bảo tính đồng nhất và ngăn ngừa rủi ro cũng như cho phép sử dụng linh hoạt tùy điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Các quy định của Thỏa thuận Khung Kinh tế số về thanh toán điện tử, bao gồm thanh toán số cần hướng đến việc giải quyết tình trạng phân mảnh quy định có thể cản trở sự hội nhập liền mạch và khả năng kết nối liên thông trong thanh toán xuyên biên giới. Sự thống nhất liên ngành giữa các quy định tài chính và chính sách thương mại kỹ thuật số có thể hỗ trợ hiệu quả hơn nữa các nỗ lực hợp tác và tăng cường kết nối thanh toán số trong khu vực và hội nhập kinh tế trướcm trong và sau các cuộc đàm phán về DEFA. Các khuyến nghị chính sách dưới đây được đề xuất để giải quyết những vấn đề này, cụ thể:
Một là, đảm bảo các cam kết của DEFA phù hợp với bối cảnh pháp lý đa dạng, tuân thủ các quy định của AMS và thúc đẩy khả năng kết nối liên thông. Theo điều khoản về thanh toán điện tử trong khung khổ DEFA, cần có điều khoản quy định trách nhiệm cụ thể liên quan đến tuân thủ Khung Chính sách Thanh toán ASEAN về Thanh toán bán lẻ xuyên biên giới trong khu vực ASEAN, mở rộng sáng kiến Kết nối Thanh toán Khu vực và thúc đẩy một môi trường đổi mới sáng tạo và cạnh tranh, phù hợp với các thông lệ của Liên Hợp quốc về triển khai Thanh toán kỹ thuật số có trách nhiệm.
Hai là, thể chế hóa nền tảng phối hợp và hợp tác liên ngành giữa các cơ quan liên quan (như tài chính, thương mại và cạnh tranh…) để thực hiện tốt hơn các ưu tiên liên ngành nhằm tăng cường kết nối kỹ thuật số trong khu vực như một phần kế hoạch triển khai khung DEFA.
Ba là, triển khai một khuôn khổ kỹ thuật cho cơ sở hạ tầng thanh toán kết nối liên thông, như các giao thức chung cho thanh toán bằng mã QR và hệ thống thanh toán thời gian thực xuyên biên giới để đảm bảo các giao dịch kỹ thuật số xuyên biên giới được thực hiện liền mạch, thông suốt.
Bốn là, tăng cường hợp tác với ngành dịch vụ tài chính số để phát triển các hệ thống giao dịch tự động (như ứng dụng trợ lý ảo Chatbot, công nghệ trí tuệ nhân tạo, học máy…) nhằm giải quyết các tranh chấp giá trị nhỏ và thúc đẩy viện sử dụng giao diện lập trình ứng dụng để tăng khả năng tương tác và đổi mới.
Năm là, nghiên cứu ban hành các quy định pháp lý trong nước về thanh toán điện tử, bao gồm quy trình phê duyệt, yêu cầu cấp phép, giám sát, thủ tục và tiêu chuẩn kỹ thuật. Đồng thời, phát triển các giao thức bảo mật thống nhất và các biện pháp thực hành, thông lệ tốt nhất đối với thanh toán số, cùng với đó là hợp tác triển khai các công nghệ mã hóa tiên tiến, kiểm tra bảo mật thường xuyên và các chiến lược ứng phó sự cố linh hoạt để phát triển bền vững hệ sinh thái thanh toán số.
NMĐ (Theo ERIA)