QUỐC HỘI KHÓA XV ỦY BAN KINH TẾ --------------- Số: 906/BC-UBKT15 |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------------------------- Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2022 |
BÁO CÁO
thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14
-----------------------------------------------
Ngày 21/6/2017, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42), trong đó tại khoản 3 Điều 19 yêu cầu Chính phủ báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết này tại kỳ họp Quốc hội đầu năm 2022 và đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm.
Thực hiện phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, để chuẩn bị thẩm tra nội dung trên, Ủy ban Kinh tế đã gửi công văn đề nghị các cơ quan, tổ chức có liên quan báo cáo1; chủ trì, tổ chức các cuộc làm việc với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và các cơ quan, tổ chức liên quan2; tổ chức phiên họp toàn thể3 và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp tháng 4/2022.
Trên cơ sở Báo cáo số 174/BC-CP ngày 11/5/2022 về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42 (Báo cáo số 174), Tờ trình số 175/TTr-CP ngày 11/5/2022 về việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 (Tờ trình số 175) của Chính phủ, ý kiến của các thành viên Ủy ban và ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Kinh tế xin báo cáo Quốc hội một số nội dung chủ yếu sau:
I. Về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42
1. Về tình hình triển khai
Ủy ban Kinh tế đánh giá cao những nỗ lực và sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, vai trò đầu mối của NHNN cũng như sự tham gia vào cuộc của các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức phối hợp, triển khai thực hiện Nghị quyết số 424. Các đối tượng của Nghị quyết như Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng đã ban hành các quy định, quy chế, văn bản hướng dẫn nội bộ nhằm cụ thể hóa việc triển khai xử lý nợ xấu theo Nghị quyết5. Công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết cũng được thực hiện thường xuyên, bảo đảm đúng quy định6.
Nhìn chung, các văn bản hướng dẫn về xử lý nợ xấu được ban hành đã cơ bản thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và đúng yêu cầu tại Nghị quyết số 427, qua đó tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng một số văn bản hướng dẫn chưa được ban hành kịp thời, làm ảnh hưởng đến tính hiệu lực của Nghị quyết số 42 và hiệu quả của công tác xử lý nợ xấu, như: Bộ Tài chính ban hành văn bản số 4606/BTC-TCT ngày 20/8/2018 về triển khai Nghị quyết số 42 sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực 12 tháng; Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu tại tòa án nhân dân (Nghị quyết số 03) sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực 9 tháng...
2. Về kết quả thực hiện thí điểm xử lý nợ xấu
Ủy ban Kinh tế cơ bản thống nhất với Báo cáo của Chính phủ về đánh giá kết quả thí điểm xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42. Từ khi có hiệu lực thi hành, Nghị quyết đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện định hướng, chính sách đúng đắn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, qua đó củng cố niềm tin của xã hội đối với công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD; đóng góp quan trọng vào kết quả triển khai Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 theo Nghị quyết số 24/2016/QH14 của Quốc hội và Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020 theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Trong thời gian áp dụng Nghị quyết, nợ xấu được xử lý của hệ thống các TCTD có nhiều tiến triển, nhất là nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42. Các hình thức xử lý nợ xấu được đa dạng hóa, đặc biệt là xử lý nợ xấu nội bảng thông qua hình thức khách hàng tự trả nợ tăng mạnh so với trước đây; một số biện pháp được thí điểm theo Nghị quyết số 42 như mua bán nợ theo giá trị thị trường, xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán từng bước phát huy tác dụng. Lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng, đạt hơn 70% tổng số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 tại thời điểm 15/8/2017 và bằng 47,9% tổng số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 tại thời điểm 31/12/20218; đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng (so với khoảng 2,15 nghìn tỷ đồng/tháng xử lý nợ xấu trung bình tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực). Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng thông qua hình thức khách hàng tự trả nợ là 148,0 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,93% tổng nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý trong khi tỷ trọng này trong giai đoạn 2012- 2017 là khoảng 22,8%); xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán là 100,8 nghìn tỷ đồng (chiếm 26,51% tổng nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý); bán nợ xấu và tài sản bảo đảm (TSBĐ) theo giá trị thị trường đạt khoảng 8,7 nghìn tỷ đồng.
Các cơ chế tại Nghị quyết số 42 cũng đã tạo động lực khuyến khích các TCTD bán nợ xấu theo giá thị trường, các tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu hoạt động sôi động hơn, năng lực tài chính của VAMC được tăng cường và hoạt động của VAMC đạt kết quả cao hơn so với giai đoạn trước (từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, kết quả thu hồi nợ của VAMC đạt 120,7 nghìn tỷ đồng, bằng 66% tổng giá trị thu hồi nợ lũy kế từ năm 2013 đến 31/12/2021; VAMC cũng đã được tăng vốn điều lệ từ 2.000 tỷ đồng năm 2017 lên 5.000 tỷ đồng vào năm 2019), từ đó bước đầu tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ. Quan trọng hơn, cùng với ngành ngân hàng, các Bộ, ngành, cơ quan liên quan đã vào cuộc để thúc đẩy mạnh mẽ hơn công tác xử lý nợ xấu, tạo sự thay đổi đáng kể về nhận thức, trách nhiệm của các bên liên quan từ khi Nghị quyết có hiệu lực.
Với những đóng góp của Nghị quyết số 42, trong giai đoạn 2017-2021, hơn 750 nghìn tỷ đồng nợ xấu của hệ thống các TCTD đã được xử lý nợ xấu cơ bản được kiểm soát, tỷ lệ nợ xấu nội bảng được duy trì ở mức dưới 2%9 (đạt mục tiêu đặt ra khi ban hành Nghị quyết là duy trì dưới 3%), trong đó tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD đến 31/12/2021 là 1,49%, giảm so với thời điểm trước khi triển khai Nghị quyết (tại thời điểm 31/7/2017, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD là 2,51%); nhiều TCTD có tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể so với thời điểm trước khi triển khai Nghị quyết10. Bên cạnh đó, quy mô, năng lực tài chính của các TCTD được tăng cường; năng lực quản trị, điều hành tiếp tục được nâng cao; sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD được giữ vững; hệ thống các TCTD giữ vai trò chủ đạo trong bảo đảm cung ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là trong bối cảnh dịch COVID-19.
Tuy nhiên, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro (riêng nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 phát sinh mới trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực tại thời điểm 31/12/2021 là 251,3 nghìn tỷ đồng và số chưa xử lý còn 412,67 nghìn tỷ đồng). Một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42 còn chưa thực sự phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án...). Đối với nợ xấu nói chung, xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỷ lệ cao (47% tổng nợ xấu được xử lý); một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỷ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống như: bất động sản (chiếm 18,4%); cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%); BOT, BT giao thông (3,92%); nợ xấu của lĩnh vực đầu tư, kinh doanh cổ phiếu và đầu tư, kinh doanh trái phiếu chỉ chiếm lần lượt là 1,13% và 0,01% so với nợ xấu của toàn hệ thống nhưng chiếm tới 19,57% và 2,87% tổng dư nợ tín dụng của từng lĩnh vực. Đây là những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD nói riêng và nền kinh tế nói chung, nhất là trong điều kiện năng lực chống chịu của nền kinh tế còn hạn chế.
Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ phân tích rõ hơn nguyên nhân dẫn đến số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 đến nay còn ở mức khá cao và có xu hướng gia tăng; các giải pháp đã triển khai thực hiện để nhận diện cũng như kiểm soát rủi ro đối với các khoản cho vay, nhất là các khoản thuộc các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Có ý kiến đề nghị đánh giá về chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ (được thực hiện đến ngày 30/6/2022), mặc dù chính sách này hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh dịch COVID-19 nhưng có thể phản ánh không đầy đủ nợ xấu của hệ thống các TCTD, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nền kinh tế11.
3. Về khó khăn, vướng mắc
Tại Báo cáo số 358/BC-CP ngày 5/8/2020 về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42, Chính phủ đã nêu 11 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 42. Ủy ban Kinh tế cũng đã có Báo cáo số 2321/UBKT14 ngày 23/10/2020 đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết, trong đó đã kiến nghị một số nội dung để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, đến nay tại Báo cáo số 174, Chính phủ tiếp tục nêu 6 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc; so với báo cáo kết quả 3 năm, có 5 vấn đề không tiếp tục được đề cập tại Báo cáo số 174 gồm: (1) Khó khăn, vướng mắc liên quan đến phối hợp thu giữ TSBĐ; (2) Về đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là TSBĐ của khoản nợ xấu; (3) Về điều kiện chuyển nhượng TSBĐ là dự án bất động sản (khoản 1 Điều 10); (4) Về công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự (THADS); (5) Về giới hạn phạm vi lựa chọn tổ chức thẩm định giá, nhưng bổ sung 2 nội dung trong số 6 nhóm vấn đề gồm: (1) Về xử lý tài sản nằm trên/trong tài sản bị thu giữ; (2) Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn.
Ủy ban Kinh tế thấy rằng, ngoài vướng mắc liên quan đến đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là TSBĐ của khoản nợ xấu đã được xử lý theo Thông tư số 09/2021/TT-BTNMT ngày 30/6/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường12, các khó khăn, vướng mắc khác, bao gồm cả các vấn đề đã nêu tại Báo cáo số 358 và Báo cáo số 174 của Chính phủ, đến nay các TCTD và các cơ quan liên quan vẫn tiếp tục phản ánh, kiến nghị trong quá trình triển khai. Qua các báo cáo và kết quả làm việc với các cơ quan liên quan, Ủy ban Kinh tế nhận thấy còn những khó khăn, vướng mắc chủ yếu như sau:
(1) Việc áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết13 chưa thực sự đạt hiệu quả, nhất là đối với các khoản nợ xấu phát sinh trước thời điểm 15/8/2017 do hầu hết các hợp đồng bảo đảm được ký trước thời điểm Nghị quyết số 42 có hiệu lực không quy định trực tiếp nội dung về thỏa thuận thu giữ TSBĐ, dẫn đến tỷ lệ thu giữ thành công còn chưa cao.
(2) Một số nội dung tại Nghị quyết chưa được hướng dẫn đầy đủ, chưa thống nhất hoặc khó triển khai:
- Thiếu một số hướng dẫn cụ thể về: (i) Phương pháp thẩm định giá đối với các khoản nợ, làm cơ sở triển khai quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết14; (ii) Trường hợp trên/trong tài sản bị thu giữ có các tài sản khác của bên bảo đảm hoặc bên thứ ba (các đồ gia dụng, điện tử, giường tủ…); chế tài xử lý hoặc cơ chế, cách thức tiến hành cưỡng chế trong trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản không hợp tác hoặc xử lý TSBĐ là tài sản duy nhất của bên bảo đảm để triển khai quy định tại Điều 7 của Nghị quyết; (iii) Nội hàm quy định về “Tài sản tranh chấp trong vụ án” tại điểm d khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết15; (iv) Nội hàm quy định về “không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án” quy định tại Điều 14 của Nghị quyết.
- Điều 8 của Nghị quyết số 42 đã được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn triển khai theo Nghị quyết số 03, tuy nhiên còn có khó khăn cho TCTD do hầu hết các khoản nợ khó đáp ứng đầy đủ các quy định để được áp dụng thủ tục này. Mặt khác, bên nợ, bên bảo đảm thường cố tình tạo ra các tình tiết mới để không đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự16, dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết. Do đó, nhiều trường hợp đang trong quá trình xem xét nhưng phải chuyển sang xét xử theo thủ tục thông thường; đến nay, hầu như chưa có TCTD nào được áp dụng thành công thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp theo quy định tại Điều này.
- Việc hướng dẫn triển khai quy định tại Điều 12 của Nghị quyết về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ còn chưa thống nhất và chưa đúng tinh thần của Nghị quyết số 42. Theo quy định tại Điều 12, “số tiền thu được từ xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý TSBĐ được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm”. Tuy nhiên, Bộ Tài chính lại hướng dẫn17 “TCTD thỏa thuận đối với các bên liên quan về cách thức thanh toán các khoản thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong quá trình xử lý TSBĐ theo nội dung Thông báo số 106/TB-VPCP ngày 22/3/2019 của Văn phòng Chính phủ”. Tổng cục THADS cũng có công văn số 2004/TCTHADS-NV1 ngày 3/7/2019 hướng dẫn thực hiện việc ưu tiên thanh toán án phí trong các vụ việc thi hành án tín dụng, ngân hàng theo đúng quy định tại Điều 47 Luật THADS. Do vậy, trong quá trình triển khai, nhiều TCTD vẫn phải nộp thuế hoặc án phí làm giảm số tiền thu hồi nợ của TCTD, nhất là khi số tiền xử lý TSBĐ không đủ thu hồi nợ18.
- Hiện còn thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu về tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý để các TCTD tra cứu, tham chiếu khi thực hiện quyền thu giữ TSBĐ.
Ngoài ra, có một số vấn đề được các cơ quan, tổ chức phản ánh là cần thiết trong thực tiễn để thúc đẩy xử lý nợ xấu nhưng chưa được quy định trong Nghị quyết, như: (i) các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ tương đối đa dạng nhưng không được thực hiện quyền thu giữ TSBĐ cũng như các quyền khác tại Nghị quyết (hiện chỉ có VAMC được thực hiện); (ii) tại Điều 8 chưa quy định các tranh chấp hợp đồng tín dụng của các TCTD với khách hàng vay được áp dụng thủ tục rút gọn, trong khi tranh chấp của các khoản nợ xấu tại các TCTD hầu hết là tranh chấp về hợp đồng tín dụng; (iii) tại Điều 14 mới chỉ quy định hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự mà chưa quy định đối với TSBĐ là tang vật trong vụ việc vi phạm hành chính, chưa đồng bộ, thống nhất với pháp luật về xử lý vi phạm hành chính19.
Ủy ban Kinh tế cho rằng nguyên nhân khách quan của những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 xuất phát từ những diễn biến phức tạp, khó lường của dịch COVID-1920 làm giảm tốc độ xử lý nợ xấu từ năm 2020 đến nay. Ngoài ra, các nguyên nhân chủ quan như nhiều trường hợp khách hàng không hợp tác với TCTD hoặc trốn tránh trong quá trình xử lý thu hồi nợ; một số TCTD chưa tuân thủ đúng quy định tại Nghị quyết số 42 hoặc chưa phối hợp tốt với cơ quan liên quan21; sự phối hợp giữa các cơ quan còn chưa kịp thời, nhất quán; việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý nợ xấu của TCTD...
Ủy ban Kinh tế đề nghị cần có giải pháp tích cực, quyết liệt hơn để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc gắn với trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cụ thể.
II. Về Tờ trình về việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42
1. Về sự cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết
Đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế thống nhất với sự cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42. Kết quả thực hiện thí điểm xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã chứng minh các chính sách tại Nghị quyết số 42 phát huy hiệu quả tích cực, giúp khơi thông dòng vốn, đưa dòng vốn luân chuyển vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế. Vì vậy, các chính sách xử lý nợ xấu cần được tiếp tục duy trì, trong đó cần nghiên cứu khả năng luật hóa các chính sách trong Nghị quyết số 42 để tạo hành lang pháp lý vững chắc về xử lý nợ xấu. Nhất là trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp thời gian qua và những bất ổn chính trị trên thế giới sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, có thể tác động tiêu cực đến thu nhập của các cá nhân, hộ gia đình và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều này dẫn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay suy giảm, nợ xấu của các TCTD có khả năng tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, nguy cơ làm mất đi những thành quả thời gian qua. Theo báo cáo của Chính phủ, tại thời điểm 31/12/2021, trong trường hợp đánh giá một cách thận trọng, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC và các khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu là 6,31%, ở mức cao so với tổng dư nợ. Đồng thời, nếu Nghị quyết số 42 không được tiếp tục thực hiện thì số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 chưa được xử lý (bao gồm cả số nợ xấu phát sinh mới) dự kiến có thể lên đến mức 430 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2022 và 443 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2023.
Bên cạnh đó, trường hợp Nghị quyết số 42 hết hiệu lực mà chưa kịp ban hành khuôn khổ pháp lý mới về xử lý nợ xấu và TSBĐ22 có thể dẫn tới khó khăn trong xử lý nợ xấu do thiếu các cơ chế, chính sách, tồn tại các khoản nợ xấu đang được xử lý mà không được tiếp tục áp dụng các cơ chế sẽ dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện. Do vậy, việc kéo dài thời hạn áp dụng của Nghị quyết sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả của các chính sách hiện hành, nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, qua đó tăng nguồn lực và tiết giảm chi phí cho hệ thống TCTD, các bên liên quan và nền kinh tế; tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong điều kiện tác động chưa thể lường hết được của dịch COVID-19; giảm thiểu những xung đột, tranh chấp do dừng các cơ chế đang áp dụng; tránh ảnh hưởng lớn, không thuận đến quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD; góp phần hoàn thiện, tăng hiệu lực, hiệu quả thể chế theo yêu cầu tại Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, tạo tâm lý tin tưởng của Nhân dân vào hệ thống các TCTD, hệ thống tài chính quốc gia; tiếp tục khuyến khích, huy động các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào cơ cấu lại các TCTD, nhất là các TCTD yếu kém.
Có ý kiến đề nghị thuyết minh kỹ hơn về sự cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng của Nghị quyết vì còn có những khó khăn, vướng mắc chưa được giải quyết triệt để; đồng thời cần dự liệu những vấn đề có thể phát sinh khi kéo dài thời hạn thực hiện thí điểm, tránh việc không thể giải quyết dứt điểm đối với các khoản nợ xấu. Có ý kiến cho rằng, việc kéo dài thời hạn áp dụng của Nghị quyết cần gắn với thời hạn, trách nhiệm cụ thể trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thay thế Nghị quyết số 42, bảo đảm tính liên tục cũng như xử lý hiệu quả nợ xấu là vấn đề luôn hiện hữu của nền kinh tế.
2. Về hồ sơ và trình tự, thủ tục
a) Về hồ sơ
Hồ sơ về việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 đã cơ bản đầy đủ theo quy định tại khoản 1 Điều 37 và Điều 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc lấy ý kiến các cơ quan liên quan về nội dung này chưa bao quát hết các chủ thể liên quan trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 42 như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Có ý kiến đề nghị Báo cáo đánh giá tác động của chính sách cần phân tích kỹ hơn, nhất là những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 42 có ảnh hưởng tới việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết.
b) Về trình tự, thủ tục
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 19/2022/UBTVQH15 ngày 21/4/2022 về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, theo đó bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022 để trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 3 theo quy trình tại một kỳ họp đối với nội dung kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42. Như vậy, việc báo cáo Quốc hội xem xét và thông qua tại 01 kỳ họp (tháng 5/2022) đối với nội dung này là phù hợp, bảo đảm sự kịp thời cũng như tạo cơ sở pháp lý liên tục cho công tác xử lý nợ xấu.
3. Về nội dung và hình thức văn bản
Đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế thống nhất với đề xuất của Chính phủ, theo đó kéo dài thời hạn thực hiện toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 đến hết ngày 31/12/2023 và đưa nội dung này vào Nghị quyết chung của kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV. Việc cho phép kéo dài thực hiện toàn bộ quy định của Nghị quyết 42 sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả của các chính sách mà Nghị quyết mang lại, duy trì chính sách ổn định, tránh gián đoạn, thiếu hụt cơ chế, tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ TCTD, VAMC đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, nhất là nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 chưa được xử lý còn cao và dự báo có thể gia tăng trong thời gian tới. Việc kéo dài thời hạn thực hiện toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 đến hết ngày 31/12/2023 cũng phù hợp với thời gian triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện quyết tâm trong khơi thông nguồn lực tập trung đạt được các mục tiêu để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong 2 năm 2022 - 2023. Bên cạnh đó, bảo đảm đủ thời gian để Chính phủ nghiên cứu kỹ lưỡng, đề xuất hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, TSBĐ nhằm thay thế Nghị quyết số 42 do đây là vấn đề khó, phức tạp, phạm vi rộng, liên quan đến nhiều quy định khác nhau của pháp luật và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng.
Có ý kiến đề nghị cân nhắc sửa đổi một số nội dung của Nghị quyết số 42 như: phạm vi của khoản nợ xấu tại khoản 1 Điều 4 của Nghị quyết số 42 theo hướng áp dụng cơ chế xử lý nợ xấu tại Nghị quyết cho tất cả các khoản nợ xấu phát sinh trong thời gian áp dụng Nghị quyết, do nợ xấu là vấn đề liên tục, luôn hiện hữu cùng với hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung; bổ sung đối tượng là công ty mua bán nợ được áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu như VAMC nhằm tạo sự sôi động hơn trong hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu; bỏ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42 về việc trong hợp đồng bảo đảm phải có thỏa thuận bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu; bổ sung phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng hoặc hoàn trả TSBĐ là tang vật của vụ việc vi phạm hành chính... để thúc đẩy hơn nữa hiệu quả xử lý nợ xấu.
Có ý kiến cho rằng, trong bối cảnh dịch COVID-19, thu ngân sách nhà nước khó khăn, cần nhiều khoản chi cho an sinh xã hội và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội trong khi hoạt động của các ngân hàng vẫn tăng trưởng và đạt kết quả tốt. Do đó, cần xem xét lại thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 42, không nên tiếp tục duy trì chính sách này.
Ủy ban Kinh tế thấy rằng quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 42 còn nhiều khó khăn, vướng mắc xuất phát từ chính quy định tại Nghị quyết cũng như từ quá trình thực thi, vì vậy, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số nội dung là cần thiết. Tuy nhiên các nội dung đặt ra đều phức tạp, cần phải có thời gian nghiên cứu và phải được đánh giá tác động đầy đủ. Do đó, đề nghị Chính phủ tiếp tục nghiên cứu các ý kiến nêu trên trong quá trình xây dựng khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, TSBĐ.
Trong quá trình kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết, để nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực của Nghị quyết, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, căn cứ chức năng, nhiệm vụ, chỉ đạo các Bộ, ngành, cơ quan liên quan trong năm 2022 khẩn trương có các văn bản hướng dẫn thực thi nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai Nghị quyết số 42 thời gian qua; lưu ý các mục tiêu, giải pháp, hoàn thiện các hướng dẫn thực hiện Nghị quyết để bảo đảm đầy đủ, thống nhất; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về xử lý tranh chấp tài sản trong các vụ án; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị cả Trung ương và địa phương; gắn trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan, tổ chức cụ thể trong việc thực hiện Nghị quyết. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ cần sớm ban hành Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025, tạo cơ sở đồng bộ, thống nhất, đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu trong thời gian tới.
Ngoài ra, trong bối cảnh một số quốc gia lớn có động thái thắt chặt chính sách tiền tệ, nguy cơ lạm phát tăng cùng với những biến động trên thị trường vốn trong nước có thể dẫn tới áp lực nợ xấu gia tăng trong lĩnh vực ngân hàng. Đề nghị Chính phủ, NHNN: (i) Có các giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào khu vực sản xuất, kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng “nóng” vào các tài sản tiềm ẩn rủi ro cao, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong hoạt động cho vay, đầu tư vào các tài sản này; (ii) Xây dựng các kịch bản ứng phó linh hoạt với những biến động của thị trường tiền tệ thế giới nhằm bảo đảm nguồn vốn được khơi thông, hạn chế nguy cơ gia tăng nợ xấu trong hệ thống các TCTD và trong nền kinh tế; (iii) Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng cường tính minh bạch, nâng cao khả năng quản trị điều hành, quản trị rủi ro, tăng cường năng lực tài chính nhằm bảo đảm các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về an toàn vốn và quản trị vốn; (iv) Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức về xử lý nợ xấu đến các tầng lớp nhân dân để khách hàng và các bên liên quan trong công tác xử lý nợ có ý thức và chủ động thực hiện.
III. Một số nội dung cần quan tâm khi xây dựng khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu trong thời gian tới
Ủy ban Kinh tế thấy rằng việc xây dựng khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu và TSBĐ trong thời gian tới là hết sức cần thiết, trong đó cần nghiên cứu kỹ lưỡng trên cơ sở kế thừa các quy định, phát huy được hiệu quả của Nghị quyết số 42, giải quyết được những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi cũng như đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, tạo được động lực thúc đẩy xử lý nợ xấu của nền kinh tế và phát triển hơn nữa thị trường mua, bán nợ xấu trong tương lai. Có ý kiến đề nghị cần quan tâm hơn đến chính sách đa dạng hóa các đối tượng tham gia trực tiếp vào công tác xử lý nợ xấu, chính sách quy định về giao dịch nợ xấu, chứng khoán hoá nợ xấu cũng như các dịch vụ hỗ trợ xử lý nợ xấu. Có ý kiến đề nghị cần tiếp tục đánh giá vai trò của VAMC trong dài hạn, nhất là khi nợ xấu tồn đọng được xử lý, khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu được hoàn thiện, các công cụ để xử lý nợ xấu đã bảo đảm phát huy hiệu quả. Có ý kiến cho rằng khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu trong thời gian tới không nên chỉ giới hạn đối với nợ xấu của các TCTD mà cần tính đến nợ xấu của nền kinh tế để có tính bao quát cũng như việc xử lý nợ xấu sẽ đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế.
Một số ý kiến đề nghị Chính phủ cần sớm tổng kết tình hình thực hiện Luật các TCTD năm 2010 (sửa đổi năm 2017) và các luật khác có liên quan để đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Có ý kiến cho rằng cần xây dựng Luật riêng điều chỉnh về xử lý nợ xấu vì công tác xử lý nợ xấu liên quan đến nhiều chủ thể (trong đó có nhiều Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức) cũng như nhiều quy định khác nhau của pháp luật. Có ý kiến đánh giá Chính phủ chưa chủ động trong việc đề nghị Quốc hội xây dựng Luật điều chỉnh về xử lý nợ xấu của các TCTD.
Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan nghiên cứu, đề xuất nội dung luật hóa cùng với việc rà soát, hoàn thiện Luật Các TCTD và các luật khác có liên quan đến xử lý nợ xấu và TSBĐ, trình Quốc hội chậm nhất vào kỳ họp đầu năm 2023.
Trên đây là Báo cáo đánh giá tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 42 và thẩm tra Tờ trình của Chính phủ về việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42, Ủy ban Kinh tế xin trân trọng báo cáo Quốc hội./.
Nơi nhận: - Các vị đại biểu Quốc hội; - Ủy viên UBKT; - Chính phủ; - HĐDT, các UB của QH; - VPCP, VPQH; - Các bộ, ngành: NHNN VN, BTP, BTC, BTNMT, BTTTT, TANDTC, VKSNDTC, KTNN. - Lưu: KT, HC; - Epas: 39879 |
TM. ỦY BAN KINH TẾ CHỦ NHIỆM (Đã ký) Vũ Hồng Thanh |