1
a) Tên Đề tài: Nghiên cứu hoạt động cho vay ngang hàng: kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
Mã số: ĐTNH.018/20
b) Tổ chức chủ trì thực hiện: Học viện Ngân hàng
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: TS. Bùi Tín Nghị, Nguyên Giám đốc Học viện Ngân hàng.
- Thư ký: PGS.TS. Phạm Thị Hoàng Anh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng.
- Thành viên tham gia:
d) Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Cơ sở lý luận về hoạt động cho vay ngang hàng;
- Kinh nghiệm quốc tế về hoạt động cho vay ngang hàng và bài học cho Việt Nam;
- Thực trạng hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam;
- Khuyến nghị đối với hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 12/2020
- Thời gian kết thúc: Tháng 6/2022
e) Kinh phí thực hiện: 220 triệu đồng.
g) Kết quả thực hiện: Giỏi
h) Mô tả tóm tắt:
Nhằm nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, đánh giá thực trạng hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam và xu hướng phát triển để đề xuất một số khuyến nghị về quản lý hoạt động cho vay ngang hàng, đề tài ĐTNH.018/20 đã triển khai các nội dung nghiên cứu cụ thể sau:
Chương 1 nghiên cứu lý luận về hoạt động cho vay ngang hàng, bao gồm: Khái niệm; Các mô hình cho vay ngang hàng - P2P Lending; Các dịch vụ gia tăng do P2P cung cấp; Lợi thế/rủi ro của hoạt động cho vay ngang hàng. Chương 1 cũng nghiên cứu các vấn đề về khung khổ pháp lý quản lý hoạt động P2P Lending như các mô hình tổ chức quản lý hoạt động P2P Lending; Khung pháp lý và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động P2P Lending. Nghiên cứu tại chương 1 cho thấy P2P Lending có nhiều lợi thế hơn so với cho vay truyền thống nhưng cũng hàm chứa nhiều rủi ro đối với nhà đầu tư, do vậy hầu hết các quốc gia đều xem xét P2P Lending là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện và phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động. Nhìn chung, quy định quản lý đối với hoạt động P2P Lending tập trung vào các vấn đề chính như: quy định về đăng ký hoạt động, về quản lý rủi ro, về hoạt động giám sát...
Chương 2 nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về hoạt động P2P Lending và quản lý hoạt động P2P Lending tại Anh, Mỹ và Trung Quốc, qua đó nhóm nghiên cứu rút ra một số bài học cho Việt Nam như: (i) Cần công nhận hoạt động P2P Lending và cho phép hoạt động của các công ty P2P Lending; (ii) Các quy định quản lý hoạt động P2P Lending nhìn chung khá phức tạp và rắc rối, đặc biệt là đối với những đối tượng mới tham gia thị trường; (iii) Việc quản lý hoạt động P2P Lending cần được thực hiện chặt chẽ ở cả cấp trung ương và địa phương; Chính phủ cũng nên tham gia vào các nền tảng P2P Lending để đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ cũng như thực hiện ưu đãi thuế cho các cá nhân cần vốn để đầu tư thông qua các bên cho vay...
Chương 3 nghiên cứu thực trạng khung pháp lý và thực trạng hoạt động P2P Lending tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy đến thời điểm hiện nay, cơ chế quản lý chung và khung khổ pháp lý điều chỉnh đối với hoạt động P2P Lending chưa được đề cập tại bất kỳ văn bản pháp lý cụ thể nào. Về cơ bản, hoạt động này vận hành trên cơ sở các quy định pháp luật có liên quan và cần sự phối hợp, tham gia của nhiều Bộ, ngành. Về thực trạng hoạt động, Việt Nam bắt đầu xuất hiện công ty hoạt động giống mô hình P2P Lending từ năm 2016 với trang huydong.com. Đến nay, các công ty P2P ở Việt Nam hoạt động theo bốn mô hình: (i) Các công ty cung cấp công nghệ đơn thuần; (ii) Các công ty bên cạnh cung cấp nền tảng công nghệ còn hợp tác với ngân hàng, tổ chức tín dụng; (iii) Các công ty P2P tự huy động vốn rồi cho vay (về bản chất thì đây là một hoạt động ngân hàng và phải được cấp phép nên hành vi này cần phải được kiểm soát, ngăn chặn); (iv) Các công ty cầm đồ xây dựng app và website riêng để cho vay dưới hình thức cho vay nặng lãi, hoặc có thể liên kết với công ty công nghệ để ứng dụng trong cho vay cầm đồ. Chương 3 cũng thực hiện khảo sát, đánh giá các loại rủi ro đối với hoạt động P2P Lending, đề xuất các biện pháp hạn chế rủi ro và đánh giá kết quả, hạn chế trong công tác quản lý hoạt động P2P Lending.
Tại Chương 4, nhóm nghiên cứu đưa ra đề xuất về mô hình tổ chức quản lý hoạt động P2P Lending và khuôn khổ pháp lý nhằm quản lý hoạt động P2P Lending. Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất về việc thiết lập các tiêu chuẩn nội bộ cho các công ty P2P Lending, gồm: quy định rõ các mô hình hoạt động P2P Lending; thiết lập các quy định chi tiết gồm tiêu chuẩn kỹ thuật phần mềm trực tuyến; yêu cầu duy trì sự hoạt động ổn định, liên tục của Platform...; quy định đầy đủ về các hoạt động chuyên ngành, sản phẩm và dịch vụ; quy định về trách nhiệm của Công ty P2P Lending trong việc bảo vệ quyền lợi đối với những người tham gia; quy định về kiểm tra, giám sát hoạt động P2P Lending của Công ty P2P Lending.
Đối với các TCTD, nhóm nghiên cứu cho rằng các TCTD cần tìm hiểu, nắm rõ các rủi ro phát sinh từ P2P Lending để hướng dẫn trong nội bộ (bao gồm cả công ty con, công ty thành viên) về các rủi ro tiềm ẩn trong bối cảnh pháp luật Việt Nam chưa có khung pháp lý điều chỉnh. Đồng thời, việc hợp tác, kết nối, giao dịch giữa TCTD với các công ty P2P Lending phải đảm bảo an toàn, hiệu quả, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của TCTD và khách hàng, tuân thủ đúng quy định của pháp luật có liên quan.