Trong ba thập kỷ qua, dựa trên nền tảng Internet, nhiều tập đoàn công nghệ ra đời và nhanh chóng chiếm vị thế áp đảo trong bảng xếp hạng các doanh nghiệp có giá trị cao nhất thế giới.
Xu hướng phát triển bùng nổ của các tập đoàn công nghệ đã dẫn đến sự hình thành các công ty công nghệ lớn (big techs) và đã thống trị lĩnh vực công nghệ thông tin. Không dừng lại ở đó, big techs cũng mở rộng sự hiện diện sang lĩnh vực tài chính và đã đạt được những thành tựu kinh tế vĩ mô rất lớn tại một số nước như Trung Quốc, Indonesia, Kenya, Hàn Quốc. Trong những năm gần đây, tăng trưởng tín dụng của các big tech tại Trung Quốc đã vượt xa tín dụng ngân hàng truyền thống (tăng 37% trong năm 2020 và 2021, trong khi tín dụng ngân hàng chỉ tăng 13%).
Các big tech là những doanh nghiệp lớn, với hoạt động chủ yếu là dịch vụ số hơn là dịch vụ tài chính. Trong đó, công nghệ thông tin và phân tích dữ liệu là hai mảng kinh doanh cốt lõi của big techs, với các mối liên kết kinh doanh đa dạng trong những khu vực khác nhau. Dịch vụ tài chính chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng đang có xu hướng tăng nhanh, chủ yếu là tạo ra giá trị như MSPs (các nền tảng trực tuyến đa diện), thúc đẩy sự tham gia phối hợp giữa các nhóm khách hàng (như bên bán và bên mua).
Mô hình kinh doanh của big techs và vòng tròn hiệu ứng mạng dữ liệu (DNA)
Có ba loại hình cơ bản về kinh doanh trực tuyến, bao gồm: các mạng lưới xã hội, các nền tảng thương mại điện tử, và công cụ tìm kiếm. Không như big techs, các doanh nghiệp tài chính (fintech) cung cấp công nghệ mới nhằm hỗ trợ các dịch vụ tài chính, và đây là hoạt động chính.
Trái với trao đổi song phương truyền thống, người dùng trao đổi trực tiếp với nhau thông qua nền tảng trực tuyến, không trao đổi với nền tảng. Thí dụ, các nền tảng xã hội cho phép con người kết nối với nhau, và mỗi thành viên đều hưởng lợi từ cộng đồng lớn. Các trang mạng bán hàng trực tuyến cho phép người dùng mua và bán những loại hàng hóa và dịch vụ đa dạng trên toàn cầu, góp phần tiết giảm chi phí.
Nét đặc trưng của các big tech là hiệu ứng ngoại mạng (tình huống trong đó giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ phụ thuộc cùng chiều vào số người cùng sử dụng): người dùng ở bên này nền tảng (thí dụ bên mua) làm tăng lợi ích của người dùng ở bên kia nền tảng (thí dụ bên bán). Một thách thức là để hấp dẫn người dùng ở cả hai phía tại cùng một thời điểm - tình huống giữa gà và trứng (liệu gà có trước hay trứng có trước). Các nền tảng thành công xử lý tình huống này bằng cách sử dụng cấu trúc giá đặc biệt, áp mức phí thấp hơn cho bên nào tạo được hiệu ứng ngoại mạng nhiều hơn - và cho phép bên hưởng lợi nhiều nhất từ mạng lưới trợ cấp bên kia mạng lưới.
Một khi MSP đã thu hút được đủ lượng người dùng từ hai bên, vấn đề quan trọng là thu hút thêm số lượng người dùng. Hy vọng là đạt đến điểm tới hạn, trên điểm đó, tăng trưởng có thể sẽ rất nhanh. Càng nhiều người bán thì sẽ có càng nhiều người mua, và ngược lại. Nghĩa là, MSP hưởng thụ thu nhập tăng cùng quy mô, chi phí dịch vụ trung bình tính theo người sử dụng sẽ giảm, và người dùng sẵn sàng trả thêm tiền để tiếp cận mạng lưới lớn hơn. Kết quả là, lợi nhuận cận biên của nền tảng sẽ tăng.
Big techs đóng vai trò cung cấp dịch vụ tài chính
Hiện nay, big techs có mặt tại nhiều mảng dịch vụ tài chính, rõ nhất là tại Trung Quốc. Đó là, Tập đoàn Ant (một bộ phận của tập đoàn Alibaba) và Tencent’s WeBank cung cấp hàng loạt dịch vụ tài chính. Tiếp đến là tại nhiều nước khác: Đông Phi và Ai Cập (Vodafone M-Pesa), Ấn Độ (PhonePe and Alphabet -Google), Argentina, Brazil and Mêhicô (Mercado Libre), Nhật Bản (Line, NTT Docomo, Rakuten), Hàn Quốc (Kakao Bank, KBank), Indonesia, Malaysia, Singapore (Go-Jek, Grab) và tại Mỹ (Amazon, Apple, Meta (Facebook), Alphabet (Google)).
Đại dịch Covid-19 cũng là cơ hội để các công ty big tech đưa ra các sản phẩm và dịch vụ, nổi bật là thanh toán điện tử, thương mại điện tử và nhiều loại hình dịch vụ khác.
Các công ty big tech có mạng lưới rộng lớn và loại hình hoạt động đa dạng đã tiếp cận nguồn dữ liệu rất lớn về người dùng, sử dụng dữ liệu này để tham gia những thị trường mới như dịch vụ tài chính, thường bắt đầu từ cung cấp dịch vụ thanh toán. Dịch vụ thanh toán của các big tech cho phép thanh toán và chuyển giao trên các nền tảng e-commerce và hỗ trợ việc khắc phục tình trạng thiếu niềm tin giữa người bán và người mua.
Đối với các big tech, thị trường thanh toán có thể rất hấp dẫn do nó đã đến lúc cần được thay thế. Trên thị trường truyền thống, phần lớn các khoản thu tập trung vào các mạng lưới thẻ và ngân hàng với mức lợi nhuận cận biên khá cao. Đây là cơ hội để các big tech nâng cao vị thế duy nhất về khả năng lưu giữ các dữ liệu khách hàng và nền tảng đa bên, cung cấp dịch vụ thanh toán với mức giá thấp hơn so với thanh toán truyền thống.
Một khi đã xâm nhập vào việc cung cấp dịch vụ thanh toán, các big tech có thể mở rộng sang cung cấp tín dụng, bảo hiểm, tiết kiệm, đầu tư, sử dụng các dữ liệu hình thành thông qua dịch vụ thanh toán. Các big tech cung cấp dịch vụ trên cơ sở phối hợp và cạnh tranh với các định chế tài chính truyền thống. Thông thường, các big tech tự cung cấp các dịch vụ tài chính cơ bản và đóng vai trò là kênh phân phối dịch vụ cho bên thứ ba như quản lý tài sản hay bảo hiểm.
Vòng lặp phản hồi hoạt động mạng dữ liệu
Trong lĩnh vực tài chính, mô hình kinh doanh đặc biệt của các big tech lệ thuộc vào phân tích dữ liệu, các hoạt động đan xen và ngoại mạng mạng lưới (hình dưới đây), ba nhóm yếu tố này hỗ trợ lẫn nhau. Tác động ngoại mạng cho phép các big tech tạo thêm nhiều dữ liệu, đầu vào chủ yếu của phân tích dữ liệu. Việc phân tích một lượng lớn dữ liệu quan trọng có tác dụng cải thiện dịch vụ hiện có và thu hút thêm người dùng. Đến lượt nó, nhiều người dùng sẽ cung cấp lượng khách hàng đông đảo với nhiều hoạt động rộng rãi, tiếp tục tạo ra nhiều dữ liệu.
Trên những nền tảng cung cấp hàng loạt dịch vụ rộng rãi, ảnh hưởng ngoại lai rất mạnh. Các dịch vụ tài chính hưởng lợi từ cả luồng đi và tới vòng lặp phản hồi DNA, và việc đưa ra các dịch vụ tài chính có thể bổ sung và củng cố các hoạt động thương mại của big techs. Thí dụ, dịch vụ thanh toán tạo thuận lợi cho việc đảm bảo an toàn các giao dịch trên nền tảng e-commerce, hoặc có thể chuyển tiền cho những khách hàng khác trên các nền tảng truyền thông xã hội. Các giao dịch thanh toán cũng tạo ra các dữ liệu, cụ thể hóa các mạng lưới giữa bên giao và nhận quỹ, những dữ liệu này có thể được sử dụng để cải tiến dịch vụ hiện hành và cung cấp những dịch vụ tài chính khác như chấm điểm tín dụng.
Nguồn và chủng loại dữ liệu và tác động cộng hưởng liên quan đến DNA có sự khác nhau giữa các nền tảng big techs. Các big tech thống trị e-commerce thu thập các dữ liệu từ người bán, như doanh thu và lợi nhuận, kết hợp thông tin về tài chính và thói quen của người tiêu dùng. Big techs tập trung vào truyền thông xã hội có các dữ liệu cá nhân và sở thích của họ cũng như mạng lưới kết nối. Big techs tìm kiếm không kết nối trực tiếp, nhưng có cơ sở rất lớn về người dùng và có thể suy đoán sở thích của họ từ kết quả tìm kiếm trực tuyến.
Mặc dù các ngân hàng lớn có nhiều khách hàng và đưa ra nhiều loại hình dịch vụ, nhưng bắt đầu kém hiệu quả hơn so với big techs trong vòng lặp phản hồi DNA. hoạt động mạng dữ liệu biên. Ngoài dịch vụ thanh toán, các ngân hàng chưa khai thác hoạt động liên quan đến hiệu ứng mạng ngoại hiện, nguyên nhân là do hầu hết các nước yêu cầu phải tách bạch hoạt động ngân hàng và thương mại. Kết quả là, các ngân hàng thường chỉ tiếp cận với các dữ liệu về giao dịch tài khoản. Hơn nữa, các hệ thống IT thừa kế không dễ kết nối với những dịch vụ khác, như thông qua các giao diện lập trình ứng dụng (APIs). Với khả năng kết hợp tiến bộ công nghệ với các dữ liệu phong phú và tập trung khách hàng, big techs được đánh giá là rất chuyên nghiệp trong việc phát triển và tiếp thị những sản phẩm và dịch vụ mới.
So với các ngân hàng chiến lược toàn cầu, các doanh nghiệp big tech có mức vốn hóa lớn hơn, nhưng dịch vụ tài chính chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ (khoảng 11% trong tổng thu nhập) trong hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, do không có chức năng nhận tiền gửi, các big tech phải đối mặt với chi phí nguồn vốn khá cao. Để tăng vốn, các big tech lệ thuộc vào thanh khoản của mình hoặc xây dựng quan hệ đối tác với các ngân hàng. Hạn chế trong việc tăng vốn có thể cản trở các big tech trong việc mở rộng dịch vụ cho vay, và sự thiếu vắng tiền gửi kìm hãm tính linh hoạt của big tech trong hoạt động cấp tín dụng cho nền kinh tế thực.
Các yếu tố thúc đẩy big techs mở rộng dịch vụ tài chính
Về mặt tiết kiệm kinh tế vĩ mô, big techs ngày càng trở nên thích hợp tại nhiều nước (như Trung Quốc, Indonesia, Kenya, Korea), nhất là trong lĩnh vực thanh toán và tín dụng. Thời gian gần đây, hoạt động cho vay của big tech tại Trung Quốc tăng khoảng 37%, trong khi tín dụng ngân hàng chỉ tăng 13%. Tuy nhiên, quy mô tín dụng của các big tech có sự khác biệt giữa các nước: tổng dự nợ chiếm 5,8% tại Kenya; 2,0% tại Trung Quốc; 1,1% tại Indonesia; dưới 1,0% tại Mỹ, VQ Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Dư nợ tín dụng từ các big tech tăng cao tại những nước không đáp ứng đủ nhu cầu về tín dụng hoặc những quốc gia thu hút các trung gian mới tham gia hoạt động cấp tín dụng. Khi kinh tế tổng thể phát triển và các thị trường trở nên chín muồi, nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ tăng cao, vai trò của big techs và fintechs trong hoạt động cấp tín dụng sẽ trở nên thích hợp.
Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cũng đang định hình hoạt động cấp tín dụng của big techs: khi giao dịch ký quỹ ở mức cao (được xác định bởi chỉ số độc quyền - chỉ số càng cao thì cạnh tranh càng thấp, và ngược lại) và thiếu vắng cạnh tranh, dư địa để big techs và fintechs phát triển tín dụng sẽ tăng cao. Đây là lĩnh vực có tiềm năng phát triển nhanh, do các big tech cung cấp tín dụng nhanh hơn và linh hoạt hơn so với các ngân hàng. Hơn nữa, nếu cạnh tranh ở mức thấp, big techs sẽ nhảy vào thị trường tín dụng do sức hấp dẫn của giao dịch ký quỹ tăng cao.
Về phía cung, có một số yếu tố giải thích hoạt động của big techs trong lĩnh vực tài chính nói chung và tín dụng nói riêng. Trong đó, động lực chính bắt nguồn từ việc (doanh nghiệp big tech) sử dụng các dữ liệu lớn và thuật toán máy học, cung cấp cho big techs lợi thế công nghệ về cấp tín dụng, có thể được sử dụng để cải thiện mức độ chính xác của các quyết định tín dụng. Ngoài ra, kỹ thuật máy học đã góp phần đáng kể vào hoạt động quản lý rủi ro và tuân thủ bằng cách tạo thuận lợi cho việc phát hiện gian lận, tội phạm tài chính và hành vi phạm pháp.
Một yếu tố quan trọng khác (cũng từ bên cung) định hình tín dụng của big techs là chế độ quản lý quốc gia. Quy định về quản lý ngân hàng càng khắt khe, hoạt động cho vay của big techs và fintechs càng hạn chế. Tại những quốc gia có quy định lỏng lẻo về quản lý thận trọng và cấp giấy phép hoạt động ngân hàng, việc đưa ra sản phẩm cho vay mới sẽ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, quản lý chặt chẽ cũng có thể dẫn đến sự chênh lệch về luật lệ; chẳng hạn, quy định ngân hàng chặt chẽ, nhưng không áp dụng đối với fintechs hay big techs.
Cuối cùng, có thể liệt kê hàng loạt đặc điểm về thể chế liên quan đến hoạt động cấp tín dụng của big techs, như quy định lỏng lẻo về hoạt động kinh doanh, bảo vệ nhà đầu tư và phát triển thị trường tài chính.
Về tổng thể, sự tham gia của big techs vào lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể mang lại những lợi ích đáng kể về hiệu quả và phổ cập tài chính. Tuy nhiên, các big tech cũng nhanh chóng áp đảo các thị trường, tham gia vào việc phân biệt đối xử, và gây tổn hại đến dữ liệu riêng tư. Điều này gây khó khăn trong việc cân bằng giữa các mục tiêu chính sách như ổn định tài chính, cạnh tranh và quyền riêng tư.
Thông qua các công cụ như yêu cầu về vốn và thanh khoản, quy định tài chính truyền thống theo đuổi mục tiêu duy trì hệ thống tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán của các định chế tài chính, và bảo vệ khách hàng. Đây là những quy định quản lý có thể áp dụng đối với big techs, hoạt động của big techs trong lĩnh vực tài chính cũng đòi hỏi phải cân bằng giữa các mục tiêu chính sách. Do đặc điểm của các mô hình kinh doanh, hoạt động của big techs trong lĩnh vực tài chính có thể đòi hỏi phải bổ sung chính sách quản lý cạnh tranh và bảo vệ dữ liệu cá nhân vào các quy định quản lý tài chính. Đồng thời, mỗi biện pháp chính sách đều phải cân nhắc các mục tiêu lợi ích cơ bản hơn là chỉ tập trung vào các mục tiêu chính sách.
Hoàng Thế Thỏa
Nguồn tham khảo: BIS tháng 10/2023