Trong báo cáo cập nhật về triển vọng kinh tế toàn cầu, các chuyên gia của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã tiến hành nghiên cứu tình hình thu nhập tại các nước phát triển và cho thấy, tốc độ tăng trưởng lương rất thấp so với thời kỳ Đại Suy thoái 2008-2009 do thị trường lao động trầm lắng, năng suất và lạm phát tăng thấp, điều này đang đặt ra nhiều thách thức trong việc rút dần chính sách tiền tệ nới lỏng.
Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh, đã mười năm trôi qua kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tốc độ tăng trưởng lương tại hầu hết các nước phát triển nhìn chung rất thấp, kể cả tại những nước có tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp. Trong một số trường hợp, mức lương tăng thấp phản ánh thực tế mức lương tăng cao bất thường trong thời kỳ trước khủng hoảng.
Về cơ bản, mức lương tăng thấp là do năng suất lao động tăng chậm dần và lạm phát tăng thấp tại các nước phát triển. Trong một số trường hợp, mức lương tăng thấp cũng thể hiện qua việc cắt giảm số giờ làm việc, lực lượng lao động tạm thời tăng cao. Diễn biến này cũng cho thấy, những thay đổi triền miên trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người lao động nhằm phản ứng với những thay đổi về công nghệ và tình trạng cứng nhắc trên thị trường lao động tại một số nước, nó đã đẩy lao động chính thành lao động tạm thời.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp nhìn chung có xu hướng giảm dần từ năm 2013, nhưng tại ¾ số nước phát triển vẫn cao hơn tỷ lệ thất nghiệp chung trong thời kỳ trước năm 2007. Xu hướng giảm tỷ lệ thất nghiệp này chủ yếu phản ánh kết quả tạo việc làm. Trong đó, trên 50% số nước phát triển có số người tham gia vào lực lượng lao động như trước năm 2007, phản ánh sự tham gia của những người trên 54 tuổi và lao động nữ. Do tỷ lệ thất nghiệp cao và số người tham gia lực lượng lao động tăng cao, khoảng một nửa số nước phát triển có tỷ lệ lao động có việc làm (lao động 15 tuổi trở lên) đạt mức xấp xỉ hoặc cao hơn so với năm 2007.
Về lương và thu nhập, mức lương danh nghĩa tại tất cả các nước phát triển đều thấp hơn so với trong thời kỳ trước cuộc Đại Suy thoái, nhất là tại những nước có tốc độ thất nghiệp giảm nhanh và hiện đang ở mức xấp xỉ hoặc thấp hơn so với trong thời kỳ trước cuộc Đại Suy thoái. Thậm chí tại những nước (như CHLB Đức, Nhật Bản) có tốc độ tăng lương trong năm 2016 cao hơn so với thời kỳ trước cuộc Đại Suy thoái. Tại Mỹ, mức lương tăng từ 0,8% trong năm 2007 lên 1,3% trong năm 2016, trong khi tại VQ Anh tăng từ 2,4% lên 3,9%, tại Pháp tăng từ 5,3% lên 7,8%. Riêng trường hợp CHLB Đức, lực lượng lao động không trọn ngày bị động (3,1%) tăng cao hơn tốc độ trung bình 2,7% trong giai đoạn 2000-2007.
Cùng với lao động không trọn ngày bị động, tỷ lệ các hợp đồng lao động tạm thời trở thành mối quan tâm trong những năm gần đây, góp phần kiềm chế tình trạng thất nghiệp vốn đã tăng quá cao trong lịch sử, và duy trì sự tham gia của các tầng lớp xã hội vào lực lượng lao động. Tuy nhiên, đây chỉ là hợp đồng lao động ngắn hạn, nên không tạo cơ hội phát triển kỹ năng và tăng cường trách nhiệm của người lao động, đôi khi chỉ mang lại lợi ích thấp. Tính đến năm 2016, chỉ trên 50% số nước phát triển có tỷ trọng lao động hợp đồng cao hơn so với năm 2007. Tại hầu hết các nước phát triển, tỷ trọng lao động hợp đồng hiện đang cao hơn so với thời kỳ 2000-2007.
Về số giờ lao động, trên 50% số nước phát triển ghi nhận số giờ làm việc trung bình của người lao động giảm ít nhất 2% so với năm 2007. Xu hướng giảm số giờ làm việc có thể phản ánh nguyện vọng của người lao động là muốn làm việc linh hoạt và sẵn sàng làm ít giờ hơn (như lao động cao tuổi và sinh viên - nhóm đối tượng có thể chưa từng tham gia lực lượng lao động). Tuy nhiên, nó cũng có thể phản ánh mong muốn của doanh nghiệp là ưu tiên thuê mướn lao động làm việc theo giờ và khi cần thiết.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, số giờ lao động giảm mạnh tại những khu vực có tỷ trọng lao động kỹ năng thấp và trung bình. Điều này phản ánh tác động của những yếu tố vượt quá nguyện vọng của người lao động, chủ yếu do nhu cầu yếu ớt về lao động tại các doanh nghiệp, hơn là từ phía người lao động.
Số giờ làm việc giảm so với thời kỳ 2000-2007, cho dù tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp. Ngoài ra, xu hướng giảm số giờ làm việc cũng gắn liền với tỷ trọng cao về lao động không trọn ngày bị động.
Xu hướng phát triển thị trường lao động tại các nước phát triển trong thời gian qua cho thấy, không có sự kết nối giữa thất nghiệp và lương, điều này có thể phản ánh các biện pháp chính sách hạn chế tốc độ tăng lương và nâng cao năng lực cạnh tranh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ tại khu vực đồng tiền chung euro. Hơn nữa, mức lương tăng thấp tại các nước phát triển dường như đều có đặc điểm chung, có thể phản ánh tác động lan truyền xuyên biên giới của điều kiện thị trường lao động yếu ớt kể từ sau cuộc Đại Suy thoái. Lương tăng chậm cũng phát sinh trong ngữ cảnh lực lượng lao động tăng cao, bao gồm lao động làm việc không trọn ngày bị động, lao động làm việc theo hợp đồng tạm thời, và các doanh nghiệp cắt giảm số giờ làm việc theo lao động. Phân tích phát hiện rằng, những thay đổi này diễn ra từ khu vực kinh tế có sự sắp xếp lao động truyền thống (tỷ trọng lao động theo hợp đồng và lao động không trọn ngày ở mức thấp, thời gian làm việc kéo dài) cho đến đến những khu vực linh hoạt trong việc sắp xếp lao động.
Phân tích cho thấy, tại cấp quốc gia, thị trường lao động ỳ ạch, cùng với năng suất và lạm phát kỳ vọng tăng thấp là những yếu tố cơ bản kìm hãm tăng trưởng lương. Quá trình tự động hóa dường như chỉ đóng góp khiêm tốn đến xu hướng tăng lương sau thời kỳ Đại Suy thoái do giá cả hàng hóa đầu tư tăng thấp trong những năm vừa qua, nếu so sánh với xu hướng suy giảm trước đây. Phân tích nhận định, quá trình tự động hóa sẽ tác động rất lớn đến xu hướng giảm giá cả hàng hóa đầu tư trong tương lai, nhưng sẽ không tác động trực tiếp đến tăng trưởng lương.
Tại những nước có tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn 2000-2007 cao hơn mức trung bình chung, các biện pháp truyền thống đóng góp khoảng 50% vào việc giảm tỷ lệ thất nghiệp, trong đó lao động không trọn ngày bị động là tác nhân chính kìm hãm tốc độ tăng lương. Tại những quốc gia này, lương dường như không tăng nếu không có chính sách thích hợp để thúc đẩy tổng cầu.
Tại những nước có tỷ lệ thất nghiệp trong thời kỳ trước khủng hoảng thấp hơn mức trung bình chung và các biện pháp truyền thống không tác động đáng kể đến thị trường lao động, năng suất lao động tăng thấp có thể chiếm 2/3 tổng tác động đến tốc độ tăng lương thấp kể từ năm 2007 đến nay. Tại những quốc gia này, lao động không trọn ngày bị động dường như cũng kìm hãm đà tăng lương, trong khi vẫn vẫn hỗ trợ phát triển lực lượng lao động. Phân tích cũng cho thấy, những nước có xu hướng năng suất tăng thấp sẽ phải đối mặt với khó khăn trong việc cải thiện mức lương, cho dù tỷ lệ thất nghiệp giảm. Lạm phát cũng sẽ tăng chậm, nếu lương không tăng tốc và vượt tốc độ tăng năng suất một cách bền vững. Trong những trường hợp này, chính sách thích hợp sẽ khuyến khích nhu cầu và giảm tỷ lệ thất nghiệp cơ bản, nhưng mức lương chung có thể tiếp tục tăng thấp cho đến khi lực lượng lao động không trọn ngày giảm xuống hay năng suất tăng cao. Việc đánh giá tác động của những biện pháp chính sách đến tỷ lệ thất nghiệp cơ bản sẽ có tầm quan trọng rất lớn, khi xác định tốc độ rút lui dần khỏi chính sách tiền tệ nới lỏng.
Bằng chứng cũng cho thấy, lao động không trọn ngày cũng có mối liên hệ với các yếu tố chu kỳ và những yếu tố dẫn dắt xu hướng tăng chậm của mức lương, như tự động hóa, kỳ vọng kinh tế yếu ớt trong giai đoạn trung hạn, khu vực dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Trong đó, một số diễn biến cho thấy sự chuyển dịch triền miên về đặc điểm của mối quan hệ giữa lao động và việc làm. Vì thế, các nhà tạo lập chính sách có thể phải tăng cường những nỗ lực để hạn chế những thương tổn có thể tác động đến lực lượng lao động không trọn ngày bị động. Biện pháp có thể bao gồm tăng cường giáo dục bậc trung học và cao đẳng nhằm nâng cao kỹ năng lao động trong dài hạn; mở rộng việc áp dụng mức lương tối thiểu đối với lao động không trọn ngày; đề xuất tỷ lệ tri trả lương bình quân hàng năm đối với hộ gia đình và lao động nghỉ ốm nhằm đảm bảo công bằng so với nhóm lao động làm việc trọn ngày; có chính sách trợ cấp đào tạo lại và bồi dưỡng tay nghề dành cho các đối tượng lao động không trọn ngày. Tuy nhiên, mỗi biện pháp chính sách đảm bảo mức thu nhập của lực lượng lao động không trọn ngày và lao động theo hợp đồng tạm thời cần được thiết lập để giảm thiểu nguy cơ gây tác động đối ngược đến tính linh hoạt của thị trường lao động và khả năng tạo việc làm.
Tổng quát hơn, sự gia tăng lao động không trọn ngày và lao động theo hợp đồng tạm thời đang thách thức cơ cấu hệ thống xã hội hiện hành, đòi hỏi phải nghiên cứu nhằm xử lý tình trạng việc làm “nhị phân” (những người trong độ tuổi lao động có việc làm trọn ngày hoặc thất nghiệp). Trong chừng mực, những thay đổi về đặc điểm của việc làm không hoàn toàn mang tính chu kỳ, nhưng cũng liên quan đến những chuyển dịch dài hạn của những yếu tố cơ cấu, có thể cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm của bảo hiểm xã hội.
Hoàng Thế Thỏa (Nguồn: IMF tháng 9/2017)