Đại dịch COVID-19 đã có những tác động sâu sắc đến người tiêu dung tài chính, đặt ra một loạt rủi ro và thách thức mới và làm trầm trọng thêm những vấn đề hiện có. Tuy nhiên, đại dịch cũng tạo ra những cơ hội, như sự phát triển của các sản phẩm tài chính mới hoặc được nâng cấp lên, cùng với các kênh phân phối được thúc đẩy bởi việc thực thi các biện pháp phong tỏa, giãn cách xã hội để ngăn ngừa lây lan đại dịch.
Kết quả khảo sát mới đây của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) với 126 người tham gia từ 164 tổ chức tại 81 nền kinh tế trong và ngoài OECD cho thấy ảnh hưởng đáng ngại nhất của dịch COVID-19 với người tiêu dùng tài chính là giảm khả năng phục hồi tài chính của người tiêu dùng, tiếp đến là khả năng dễ bị lừa đảo và gian lận tài chính.
Giảm khả năng phục hồi tài chính của người tiêu dùng
Việc khả năng phục hồi tài chính của người tiêu dùng bị giảm do thu nhập giảm, mất việc làm được đánh giá là có mức độ đáng lo ngại nhất. Điều này không có gì ngạc nhiên khi đại dịch — và các biện pháp ứng phó với sự lây lan đại dịch đã tác động lớn đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới cũng như tài chính của từng hộ gia đình, đặc biệt là các hộ gia đình vốn có mức độ phục hồi tài chính thấp. Khảo sát từ các nước G20 và ngoài G20 cho thấy cuộc khủng hoảng COVID-19 đã ảnh hưởng đến khả năng phục hồi tài chính của các hộ gia đình chủ yếu thông qua mất việc làm và thu nhập. Các quốc gia có thu nhập thấp bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với mức tăng trưởng dự kiến vào năm 2022 thấp hơn gần 5% so với dự báo cơ bản của Ngân hàng Thế giới (WB) vào tháng 01/2020. Cũng theo WB, đại dịch đã đẩy gần 100 triệu người vào cảnh nghèo cùng cực trên toàn cầu.
Thống kê cho thấy, khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên đáng kể ở nhiều nơi trên thế giới. Số giờ làm việc của nhiều công nhân giảm mạnh, ở mức độ lớn hơn nhiều so với hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong khảo sát Về các vấn đề rủi ro năm 2020, hơn 1/3 số người được hỏi tại 25 quốc gia OECD cho biết hộ gia đình của họ đã bị gián đoạn công việc ít nhất một lần. Trong số các hộ gia đình bị mất việc làm, 81% người được hỏi cho biết phần nào hoặc rất lo lắng về tình hình kinh tế của hộ gia đình trong hai năm tới.
Ngay ở những nơi mà các chương trình việc làm đã lấp đầy chỗ trống cho nhiều lao động, tình trạng mất an ninh kinh tế vẫn phổ biến. Theo ghi nhận của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và OECD, nhiều lao động đã phải chấp nhận số giờ làm việc ít hơn hoặc cắt giảm lương. Lao động được trả lương thấp, thường có tay nghề thấp, đặc biệt bị ảnh hưởng trong giai đoạn đầu của khủng hoảng. Báo cáo cho thấy tác động của cuộc khủng hoảng là không đồng đều, với những tác động bất cân xứng, trong đó lao động khu vực kinh tế phi chính thức thường bị hạn chế tiếp cận với các biện pháp bảo vệ xã hội, thanh niên và phụ nữ thường tham gia nhiều vào các công việc phải tiếp xúc vật lý.
COVID-19 cũng khiến người tiêu dùng ít sẵn sàng chi tiêu hơn, phần nào do việc đóng cửa hàng và các hạn chế đi lại. Theo số liệu thống kê của OECD, tiêu thụ đã giảm ở mức lớn nhất được ghi nhận và tại một số quốc gia, mức tiêu dùng của hộ gia đình đã giảm xuống mức thấp hơn của năm 2007.
Tại các nước có thu nhập cao, dữ liệu cho thấy trung bình các hộ gia đình đã tăng tiết kiệm và tiền gửi ngân hàng trong thời kỳ đại dịch. Tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình vào năm 2020 tăng cao hơn bất kỳ thời điểm nào trong 100 năm qua (theo OECD). Nghiên cứu cho thấy các hộ gia đình thu nhập cao có khả năng tích lũy nhiều tiền tiết kiệm hơn, ngược lại các hộ gia đình có thu nhập thấp nhiều khả năng có số dư giảm đi.
Cùng lúc, cuộc khủng hoảng cũng cho thấy nền tảng của an ninh tài chính hộ gia đình có thể bấp bênh hơn và kém bình đẳng hơn so với giả định trước đây. COVID-19 vừa làm trầm trọng thêm vừa làm bộc lộ những lỗ hổng và bất bình đẳng tiềm ẩn. Nghiên cứu từ New Zealand cho thấy sáu tháng sau khi đại dịch bắt đầu, các hộ gia đình bản địa người Maori hoặc Pasifika ít có khả năng kiếm được nhiều tiền bằng hoặc hơn trước đại dịch. Nghiên cứu tương tự chỉ ra các hộ gia đình do phụ nữ làm chủ có nhiều khả năng bị nợ ít nhất một khoản thanh toán, và khả năng thương lượng với các chủ nợ không bằng nhau: trên 1/2 số hộ gia đình Pasifika đã cố gắng để thu xếp với chủ nợ nhưng đã bị ít nhất một chủ nợ từ chối, trong khi tỷ lệ này ở châu Âu là dưới 1/3. Khảo sát do Ủy ban quốc gia về giáo dục tài chính Italia thực hiện phát hiện ra tác động bất bình đẳng theo giới khi kể từ sau đại dịch, phụ nữ có nhiều khả năng phải sửa đổi mục tiêu tài chính dài hạn so với nam giới (46% so với 37%). Phân tích từ Vương quốc Anh cũng thể hiện đại dịch tác động tài chính đến phụ nữ nhiều hơn khi chênh lệch tiết kiệm lương hưu trung bình giữa nam giới và phụ nữ đã tăng 16% vào năm 2021.
Số hóa các sản phẩm và dịch vụ tài chính
Một trong những tác động đáng kể nhất của đại dịch đối với người tiêu dùng tài chính là đẩy nhanh quá trình số hóa lĩnh vực dịch vụ tài chính. Trong khi xu hướng số hóa các sản phẩm và dịch vụ đang tiến triển tốt trước COVID-19, các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội ở nhiều nền kinh tế đã buộc doanh nghiệp và người tiêu dùng phải nhanh chóng thay đổi thói quen để thích ứng. Một nghiên cứu ước tính lượng tải xuống các ứng dụng fintech đã tăng lên khoảng 30% (tương đương với tổng cộng 270 triệu lượt tải) khi đại dịch ở đỉnh điểm.
Kết quả khảo sát của OECD cũng cho thấy hầu hết những người được hỏi cho biết số người tiêu dùng sử dụng các nền tảng kỹ thuật số đã tăng lên. Trong đó, khoảng 95% cho rằng các thanh toán kỹ thuật số đã tăng lên theo tỷ lệ khối lượng và giá trị thanh toán. Nhiều nền kinh tế quan sát thấy sự tham gia của các sản phẩm và dịch vụ tài chính kỹ thuật số mới để đáp ứng với đại dịch COVID-19. Khoảng 2/3 số người được hỏi đến từ các nền kinh tế thu nhập thấp và trung bình và 1/3 đến từ các nước thu nhập cao báo cáo số nhà cung cấp mới gia nhập cung cấp dịch vụ kỹ thuật số đã tăng lên do COVID-19. Những người khác cho biết các sản phẩm tài chính kỹ thuật số hiện có được nâng cấp hoặc hoặc tiếp thu nhanh chóng công nghệ mới, đặc biệt là các sản phẩm thanh toán và giao dịch như ví kỹ thuật số và thanh toán kỹ thuật số giữa cá nhân với nhau và giữa cá nhân với doanh nghiệp. Việc sử dụng mã QR, thẻ không tiếp xúc cùng nền tảng, ứng dụng giao dịch trên điện thoại di động cũng tăng trưởng nhanh chóng.
Một trong những tác động cụ thể của đại dịch là sử dụng tiền mặt liên tục giảm theo hướng tăng thanh toán kỹ thuật số. Theo một cuộc khảo sát với 26.000 người trưởng thành ở 21 quốc gia, khoảng 50% số người đã ít sử dụng tiền mặt thường xuyên hơn kể từ khi đại dịch bùng phát hoặc đã chủ yếu thực hiện thanh toán qua các phương tiện kỹ thuật số. Trên toàn cầu, thanh toán bằng tiền mặt chỉ còn chiếm 1/5 trong số các giao dịch tại điểm bán hàng vào năm 2020, giảm 32% so với năm 2019. Ở nhiều quốc gia, các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán đã được hoặc phải mở rộng việc sử dụng và tăng giới hạn thanh toán không tiếp xúc. Dữ liệu cho thấy từ 2019 đến 2020, thanh toán không tiếp xúc và giới hạn thanh toán đã tăng lên, dao động từ 50 đến 200% giới hạn ban đầu.
Mặc dù những phát triển này chứng minh vai trò quan trọng của những thành tựu kỹ thuật số như một phần ứng phó với đại dịch, tác động của quá trình tăng tốc số hóa này cũng kéo theo những rủi ro đáng kể cho người tiêu dùng. Trong đó, nhiều ý kiến (hầu hết trong số đó đại diện cho các nền kinh tế có thu nhập thấp hoặc trung bình) nhấn mạnh sự gia tăng loại trừ tài chính do thiếu kiến thức, năng lực về kỹ thuật số như là một "rủi ro rất lớn", đặc biệt là nhóm các hộ gia đình có thu nhập thấp và người cao tuổi. Bên cạnh đó là sự gia tăng loại trừ tài chính do thiếu khả năng tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính (vật lý hoặc kỹ thuật số).
Cũng theo kết quả khảo sát của OECD, số giao dịch ATM cũng như số lượng chi nhánh ngân hàng đã giảm trong giai đoạn 2019 – 2020. Trong khi xu hướng giảm sử dụng tiền mặt đã diễn ra từ trước đại dịch thì việc tiếp cận các dịch vụ tài chính vật lý —như chi nhánh ngân hàng — vẫn quan trọng đối với một số người tiêu dùng, đặc biệt là những người cao tuổi. Hơn nữa, khảo sát toàn cầu cho thấy thái độ của người tiêu dùng đối với việc giảm sử dụng tiền mặt khác nhau, với người ở các quốc gia đã sử dụng thanh toán điện tử nhiều hơn phản đối việc hoàn toàn không dùng tiền mặt. Các phản hồi cũng báo cáo những thách thức kỹ thuật liên quan đến việc tăng giới hạn cho thanh toán không tiếp xúc, dẫn đến chậm trễ trong việc nâng giới hạn cho một số khách hàng hoặc nhà bán lẻ nhất định.
Bên cạnh đó, các rủi ro bảo mật kỹ thuật số bao gồm một loạt thách thức riêng biệt phát sinh từ quá trình gia tăng số hóa. Rủi ro này có thể bao gồm các dạng lừa đảo hoặc gian lận mới được thực hiện trực tuyến, vi phạm dữ liệu và các sự cố bảo mật, quá nhiều hồ sơ dữ liệu dẫn đến loại trừ tài chính, thiếu về quyền riêng tư và thao túng thiên kiến hành vi của người tiêu dùng khi hoạt động trực tuyến. Gia tăng số hóa trong COVID-19 đã làm cho những rủi ro như vậy trở nên đáng chú ý hơn và nhiều quốc gia đang tăng cường tập trung vào an ninh mạng.
Tính dễ bị tổn thương đối với gian lận và lừa đảo được xác định là rủi ro lớn thứ hai đối với người tiêu dùng tài chính phát sinh từ đại dịch COVID-19. Khoảng 1/2 số người được hỏi cho biết các cơ quan đã phát hiện các gian lận và lừa đảo nhắm vào người tiêu dùng tài chính liên quan đến COVID-19. Phần lớn người được hỏi cho biết tỷ lệ lừa đảo và gian lận được báo cáo đã tăng lên kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19, từ 1-25%. Các hình thức lừa đảo phổ biến nhất là tấn công giả mạo (lừa người tiêu dùng cung cấp thông tin nhận dạng cá nhân trực tuyến) và các kế hoạch giả được thiết kế để dụ dỗ người tiêu dùng chuyển tiền, thanh toán hoặc đầu tư. Những người được hỏi cũng bày tỏ mối quan tâm đặc biệt về những trò gian lận liên quan đến mạng xã hội hoặc các nền tảng đầu tư, cũng như các hành vi gian lận nhắm vào những người nhận trợ cấp khẩn cấp của chính phủ.
Các hành động phổ biến nhất được thực hiện bởi các cơ quan quản lý bảo vệ người tiêu dùng tài chính để đối phó với lừa đảo và gian lận là các chiến dịch nâng cao nhận thức chung và cảnh báo người tiêu dùng liên quan đến lừa đảo tài chính. Các chiến dịch nâng cao nhận thức sử dụng một loạt các kênh để nhắm mục tiêu người tiêu dùng như phương tiện truyền thông xã hội, video, hội thảo trên web, đồ họa thông tin và tin nhắn SMS. Các cảnh bá người tiêu dùng sẽ đề cập đến các loại lừa đảo như: lừa đảo mạo danh chính phủ, lừa đảo hỗ trợ công nghệ, lừa đảo tiền điện tử và hỗ trợ nhận các khoản thanh toán cứu trợ của chính phủ,…. Khoảng 40% số người được hỏi cho biết họ đã thực hiện các hành động giám sát hoặc thực thi như đóng cửa các nhà điều hành bất hợp pháp, tăng cường các quy định bảo mật, hợp tác với lực lượng thực thi pháp luật hoặc hệ thống tư pháp.
HN (theo OECD)