Skip to Main Content
Lỗi

State bank of vietnam portal

the state bank of viet nam

|
  • News
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Statistics
    • Balance of International Payment
    • Total Liquidity
      • Total Liquidity & Deposits with Credit Institutions
      • Cash in Total liquidity
    • Settlements
      • National Payment System Transactions
      • Domestic Transactions by Means of Payment
      • Trasactions via ATM.POS/EFTPOS/EDC
      • Number of Bank Cards
      • Deposits in Indivisudual Payment Accounts
      • List of Non-Bank Payment Service Suppliers
    • Credit to the Economy
    • Performance of Credit Institutions
      • Key Statistical RatiosKey Statistical Ratios
      • Ratio of loan outstanding over total deposits
      • Ratio of NPLs over Total Loan Outstanding
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
Trang chủ
  • News
  • Press Release
    • Thông tin về hoạt động ngân hàng trong tuần
    • Thông cáo báo chí khác
  • Tỷ giá
    • Tỷ giá trung tâm
    • Tỷ giá tham khảo tại giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ tại Cục Quản lý ngoại hối
    • Tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ để xác định giá tính thuế
  • Lãi suất
    • Lãi suất NHNN quy định
    • Lãi suất thị trường liên ngân hàng
  • Statistics
    • Cán cân thanh toán quốc tế
    • Tổng phương tiện thanh toán
      • Tổng phương tiện thanh toán và Tiền gửi của khách hàng tại TCTD
      • Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán
    • Hoạt động thanh toán
      • Giao dịch của hệ thống thanh toán quốc gia
      • Giao dịch thanh toán nội địa theo các PTTT
      • Giao dịch qua ATM/POS/EFTPOS/EDC
      • Số lượng thẻ ngân hàng
      • Tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
      • Các tổ chức CUDVTT không phải là TCTD
    • Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
    • Hoạt động của hệ thống các TCTD
      • Thống kê một số chi tiêu cơ bản
      • Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
      • Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
    • Điều tra thống kê
      • Hướng dẫn
      • Phiếu điều tra
      • Điều tra trực tuyến
      • Kết quả điều tra
    • Các văn bản liên quan đến quy định báo cáo thống kê
  • CPI
  • Legal Documents
  • Monetary Policy
    • Orientations for monetary policy management and banking operations
    • Monetary policy decision making authority and monetary policy tools
  • Payment & Treasury
    • SBV responsibilities for payment operations
    • Payment Systems
      • Inter-bank Electronic Payment System
      • Other payment systems
    • Payment System Oversight
      • Thanh toán không dùng tiền mặt
    • Bank Identifification Numbers
    • SBV’s Payment Services Fee Schedule
    • Treasury Operations
    • Danh mục các giao dịch bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng
  • Money Issuance
    • Vietnamese Currency
    • Typical Features
    • Protection of Vietnamese Currency
  • Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng
  • Cải cách hành chính
    • Tin tức CCHC
    • Bản tin CCHC nội bộ
    • Văn bản cải cách hành chính
    • Phiếu lấy ý kiến giải quyết TTHC
    • Bộ câu hỏi về thủ tục hành chính NHNN
    • Danh mục điều kiện kinh doanh
    • Danh mục báo cáo định kỳ
    • HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO
    • Đào tạo ISO
  • Diễn đàn NHNN
    • Hỏi đáp
    • Lấy ý kiến dự thảo VBQPPL
  • About SBV
    • History
    • Major Responsibilities
    • Management Board
    • Former Governors
  • Fintech - Nghiên cứu trao đổi
  • Chuyên đề khác

Thị trường tài chính năm 2024 và kỳ vọng

14/01/2025 21:12:00
0:00
/
0:00
Giọng Nam
  • Giọng Nam
  • Giọng Nữ

Bức tranh lạc quan trên phần lớn các thị trường tài chính thế giới là kinh tế toàn cầu 2024 vẫn bền vững trước những khó khăn chồng chất và tránh được nguy cơ rơi vào suy thoái. Tuy nhiên, nguyên nhân cơ bản là chu kỳ hạ lãi suất rộng khắp để vực dậy tăng trưởng kinh tế sau thời kỳ thắt chặt kéo dài. Khi Fed và các NHTW tại các nước phát triển (AEs) hạ lãi suất, các thị trường trái phiếu toàn cầu cũng hưởng lợi và tăng dần.

Những ngày cuối cùng của năm 2024, mặc dù sắc đỏ bao trùm nhưng thị trường chứng khoán Mỹ tiếp tục ghi nhận một năm nổi bật, nối tiếp đà phục hồi mạnh mẽ và tăng cao trong năm 2023. Trong phiên giao dịch ngày 31/12/2024, các chỉ số chính của thị trường chứng khoán Mỹ như Dow Jones, S&P 500, Nasdaq Composite đều giảm nhưng vẫn duy trì mức tăng đáng kể so với năm 2023. Mặc dù vậy, chỉ số biến động thị trường (VIX) vẫn thuộc biên độ rủi ro cao (17 điểm trở lên) do lãi suất chính sách vẫn đứng ở mức cao, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 30 năm, 10 năm và 2 năm đóng cửa năm 2024 ở mức cao, chỉ số WSJ Dollar tăng 7,22% lên 102,76.

Các đợt cắt giảm lãi suất, sức mạnh nền kinh tế Mỹ và trí tuệ nhân tạo (AI) đã hỗ trợ các chỉ số chính của thị trường chứng khoán lập nhiều kỷ lục trong cả năm 2024. Thậm chí giao dịch tiền ảo Bitcoin sôi động hơn thị trường chứng khoán với mức tăng bứt phá 119% trong năm 2024 lên kỷ lục trên 100.000 USD. Giá vàng lên mức 2.639,30 USD, tăng 26% so với đầu năm, trong khi đó, USD đã song hành cùng vàng và tăng giá mạnh, đưa chỉ số USD lên 108,01 trong năm 2024.

Tương tự, các thị trường chứng khoán châu Á - Thái Bình Dương khép lại năm 2024 với kết quả tăng đầy ấn tượng. Sự bứt phá này đến từ hai động lực chính, bao gồm làn sóng AI bùng nổ và chính sách tiền tệ nới lỏng trong khu vực. Đáng chú ý, thị trường chứng khoán Trung Quốc ghi nhận một năm bước ngoặt 2024, khi chấm dứt ba năm thua lỗ liên tiếp, chỉ số CSI 300 tăng 14,64%. Kết quả này bắt nguồn nỗ lực của Bắc Kinh trong việc củng cố nền kinh tế thông qua hàng loạt giải pháp, mặc dù vẫn khiêm tốn - phản ánh những khó khăn nội tại trong nền kinh tế Trung Quốc. Do rối loạn chính trị, thị trường chứng khoán Hàn Quốc trồi sụt trong những ngày cuối năm, chỉ số Kospi của Hàn vẫn tăng trên 9,0% so với đầu năm.

Mặc dù ghi nhận một năm thành công, các thị trường chứng khoán châu Âu chỉ tăng thấp so với nhiều khu vực khác trên thế giới do tác động tiêu cực của các yếu tố như: bất ổn chính trị tại Pháp và CHLB Đức, căng thẳng địa chính trị kéo dài tại Ukraina, trong đó, nhu cầu tiêu dùng yếu tại Trung Quốc là yếu tố cơ bản đã kiềm chế thị trường châu Âu năm 2024, nhất là nhóm cổ phiếu của các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp. Chỉ số chứng khoán chuyên về ôtô và các phụ tùng liên quan của châu Âu (Euro Stoxx Automobiles & Parts) giảm khoảng 13% trong năm 2024; cổ phiếu của các hãng sản xuất ôtô Đức đã giảm 13-25%. Trong bối cảnh bất ổn chính trị trong nước và các sự kiện toàn cầu tiếp tục tăng cao, kinh tế châu Âu năm 2025 vẫn sẽ đối mặt với nhiều thách thức, nhất là trong lĩnh vực sản xuất ôtô và tài chính ngân hàng.

Chu kỳ hạ lãi suất

Sau các nỗ lực kéo giảm lạm phát về gần mục tiêu đề ra, ngày 21/3/2024, Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ (SNB) quyết định giảm lãi suất chủ chốt 25 điểm cơ bản (0,25%) xuống 1,0%, mở đầu xu hướng giảm lãi suất tại nước phát triển (AEs). Ngày 05/6/2024, NHTW Canada hạ lãi suất chuẩn 0,25% xuống 4,75% và là NHTW đầu tiên trong nhóm G7 bắt đầu chu kỳ nới lỏng. Sau đó ít lâu, các NHTW tại một số AEs khác cũng bắt đầu giảm lãi suất.

Nhằm chặn đà suy giảm GDP tại khu vực đồng tiền chung euro, ECB tiến hành bốn đợt cắt giảm lãi suất từ 4,0% xuống 3,0% trong năm 2024. NHTW Anh (BoE) thận trọng hơn do lạm phát vẫn đứng ở mức cao và chỉ tiến hành hai đợt giảm lãi suất từ 5,25% xuống 4,75%.

Trái với xu hướng giảm lãi suất tại hầu hết AEs, NHTW Nhật Bản (BoJ) lại tăng lãi suất. Ngày 19/3/2024, BoJ quyết định tăng lãi suất cho vay qua đêm từ -0,1% lên 0-0,1%, chính thức chấm dứt lãi suất âm từ năm 2016. Ngày 31/7, BoJ tiến hành thêm một đợt tăng lãi suất, đưa lãi suất cơ bản lên 0,25% và công bố kế hoạch giảm mua trái phiếu chính phủ, từng bước chấm dứt một thập niên áp dụng chính sách kích thích kinh tế khổng lồ. Tuy nhiên, nhiều khả năng BoJ sẽ tăng lãi suất tại cuộc họp tháng 01/2025 tới đây do lạm phát tăng cao trong những ngày cuối năm 2024.

Các thị trường phản ứng mạnh mẽ sau khi Fed bắt đầu cắt giảm 0,5% lãi suất cho vay qua đêm tại cuộc họp ngày 18/9 xuống biên độ 4,75-5,0%. Sau đó, Fed tiến hành thêm hai đợt giảm lãi suất (cùng giảm 0,25% vào ngày 07/11 và ngày 18/12) xuống 4,25-4,5%. Động thái này đã thúc đẩy thị trường phục hồi và kinh tế Mỹ tránh được suy thoái, gây tác động lan tỏa tới nền kinh tế thế giới, tạo thuận lợi cho các NHTW khác trong việc cân nhắc chính sách tiền tệ và sẽ lần lượt đi theo Fed.

Tại cuộc họp cuối năm 2024, Fed tiếp tục giảm lãi suất trong năm 2025, nhưng dự kiến sẽ chỉ tiến hành thêm 2 đợt cắt giảm do lo ngại lạm phát có thể tăng cao trở lại, cùng việc thận trọng trước tác động từ chính sách tài khóa và thương mại dưới thời Tổng thống Donald Trump. Cũng tại cuộc họp này, Fed nâng dự báo lạm phát tổng thể và lạm phát lõi năm nay lên 2,4% và 2,8%, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 4,2%, GDP dự báo giảm dần về mức tăng trưởng tiềm năng1,8% trong những năm tới.

Ngày 19/12, BoJ tiếp tục duy trì lãi suất 0,25% do lo ngại chính sách của Trump sẽ đe dọa nền kinh tế Nhật Bản - vốn phụ thuộc vào xuất khẩu. Cùng ngày, BoE quyết định duy trì lãi suất chính sách 4,75% và nhấn mạnh sự cần thiết phải có cách tiếp cận thận trọng trong lộ trình giảm lãi suất do bất ổn kinh tế tăng cao. Tuy nhiên, BoE có thể sẽ tiến hành bốn đợt giảm lãi suất trong năm 2025, nếu lạm phát tiếp tục hạ nhiệt.

Tương tự, NHTW Nauy cũng quyết định giữ nguyên lãi suất cao 4,5% trong 16 năm qua và nhấn mạnh rủi ro bắt nguồn từ cuộc chiến thương mại Mỹ Trung, thuế cao sẽ kìm hãm tăng trưởng toàn cầu. NHTW Thụy Điển giảm 0,25% lãi suất như kỳ vọng, nhưng sẽ thận trọng hơn khi quyết định giảm lãi suất trong năm 2025.

Tại châu Âu, NHTW CH Séc tạm dừng cao trào giảm lãi suất do thận trọng với áp lực lạm phát. ECB và NHTW Canada tiếp tục xu hướng giảm lãi suất trong năm 2025 do triển vọng kinh tế trầm lắng, nhưng không đưa ra thời điểm và mức cắt giảm cụ thể do lo ngại căng thẳng thương mại với Mỹ sẽ leo thang. Trong thời gian tới, ECB sẽ tiến hành giảm lãi suất một cách thận trọng, và có thể tiếp tục giảm lãi suất xuống 2,75% tại cuộc họp tháng 01/2025 tới đây.

Động thái cắt giảm lãi suất của Fed được kỳ vọng sẽ làm suy yếu USD, nhưng JPMorgan lưu ý, USD đã mạnh lên sau lần cắt giảm đầu tiên của Fed tại 3/4 chu kỳ gần đây nhất. Theo các nhà kinh tế, triển vọng của USD chủ yếu phụ thuộc vào mức lãi suất tại Mỹ so với những nước khác. USD vẫn sẽ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư ngoài Mỹ, trừ khi nó trở thành đồng tiền có lợi suất thực sự thấp.

Trên thực tế, mức tăng trưởng cao liên tục và bền vững của nền kinh tế Mỹ đã củng cố vị thế USD trên thế giới, nhất là từ tháng 3/2022, sau khi Fed bắt đầu tăng lãi suất cấp tập để chống lạm phát. Kể từ đó, xu hướng dòng vốn thoát khỏi các phần còn lại trên thế giới bắt đầu rõ nét, từ AEs đến EMDEs. Đáng chú ý, USD tăng vọt cùng với nhiều tin tức tiêu cực đã kích hoạt làn sóng bán tháo các đồng tiền mới nổi để chuyển sang USD và những tài sản an toàn hơn.

Với biên độ lãi suất cho vay qua đêm 4,25-4,5% hiện nay, mặt bằng lãi suất tại Mỹ vẫn tương đối cao so với tại nhiều AEs và một số EMDEs, áp lực tỷ giá vì thế rất khó hạ nhiệt trong năm 2025, khi Mỹ tăng thuế nhập khẩu hàng hóa và giảm thuế trong nước để khuyến khích các doanh nghiệp vào Mỹ.

Do áp lực tỷ giá tăng cao triền miên và hoạt động kinh tế trầm lắng trong thời gian dài, mỗi đợt giảm lãi suất tại Mỹ đều góp phần giảm bớt nỗi lo của các nước khác. Đối với EMDEs, lãi suất thấp hơn tại Mỹ sẽ giảm áp lực phải giữ lãi suất cao để bảo vệ đồng bản tệ và kiềm chế làn sóng thoát vốn, qua đó có thể giảm lãi suất để thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư trong nước. Trong chu kỳ nới lỏng tiền tệ lần này, một số EMDEs hàng đầu đã tiến hành giảm lãi suất trước Fed, dẫn đầu là các nước Mỹ Latinh và châu Âu. Vì thế, chênh lệch lãi suất tại EMDEs so với tại Mỹ đã thu hẹp dần, tác động tích cực đến các dòng vốn vào. Thậm chí, nhiều đồng tiền châu Á đã tăng giá khá mạnh trước kỳ vọng Fed giảm lãi suất. Đồng Won của Hàn Quốc, đồng Baht của Thái Lan và đồng Ringgit của Malaysia tăng vọt trong tháng 7 và tháng 8 vừa qua. Trong khi đó, đồng nhân dân tệ (CNY) của Trung Quốc cũng đã lấy lại toàn bộ những gì đã mất so với USD kể từ đầu năm.

Sau khi giảm 1.765 điểm cơ bản vào năm 2022 và 945 điểm cơ bản vào năm 2023, các EMDEs tiếp tục giảm các mức lãi suất điều hành với tổng cộng 1.350 điểm cơ bản (46 đợt) trong 11 tháng đầu năm 2024. Đáng chú ý, Mêhicô tiến hành tới 5 đợt giảm lãi suất trong năm 2024 xuống 10%. Riêng NHTW Brazil đã kéo dài chu kỳ tăng lãi suất, nâng lãi suất chủ chốt thêm 50 điểm cơ bản.

Tại ASEAN, đến tháng 8/2024, các NHTW của Malaysia, Thái Lan và Indonesia vẫn giữ nguyên lãi suất nhằm ổn định tỷ giá để kiểm soát lạm phát khi Fed có quan điểm duy trì lãi suất cao trong thời dài hơn dự kiến. Do đang trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ lãi suất, nên các nước ASEAN sẽ có những bước đi khác nhau về lãi suất trong thời gian tới.

Ngày 18/9, NHTW Indonesia (BI) bất ngờ hạ lãi suất 25 điểm cơ bản, chỉ vài giờ trước khi Fed công bố giảm 0,5% lãi suất, khởi đầu chu kỳ giảm lãi suất tại ASEAN. Các nhà phân tích dự đoán, BI sẽ hạ lãi suất thêm 75 điểm cơ bản vào năm tới khi đồng rupiah đang mạnh lên và lạm phát tại Indonesia vẫn ổn định.

Với triển vọng GDP tăng cao và lạm phát yếu, Philippines đã chủ động nới lỏng tiền tệ vào tháng 8/2024 với mức giảm 25 điểm cơ bản, đưa lãi suất xuống còn 6,25%. NHTW Philippines đã có thêm 2 đợt giảm lãi suất cơ bản (vào tháng 10 và 12) xuống 5,75%. Philippines là một trong những nền kinh tế chịu áp lực lạm phát căng thẳng nhất ở châu Á do nước này phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu, nhất là gạo và thực phẩm thiết yếu khác.

Kể từ khi Fed bắt đầu tăng lãi suất vào tháng 3/2022, USD mạnh lên và đồng tiền châu Á giảm giá, dẫn đến thiếu hụt nguồn cung trái phiếu USD của các doanh nghiệp hàng đầu tại châu Á và phải phát hành trái phiếu bản tệ. Khi Fed phát tín hiệu sẽ hạ lãi suất vào mùa hè này, các doanh nghiệp châu Á đã rục rịch chuẩn bị vay nợ USD. Theo các chuyên gia, việc Fed bắt đầu chu kỳ hạ lãi suất mở đường để các NHTW châu Á tiến hành các đợt giảm lãi suất mà không phải lo đồng bản tệ mất giá, tạo cú hích cho trái phiếu niêm yết bằng các đồng bản tệ châu Á. Với trái phiếu bằng USD, nhà đầu tư đang săn lùng các doanh nghiệp chất lượng cao và trái phiếu chính phủ của các quốc gia.

Liên quan đến xu hướng này, nếu Trung Quốc rơi vào “bẫy giảm phát” giống Nhật Bản vài thập niên trước đây, PBC sẽ phải duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng với lãi suất thấp trong thời gian dài, đưa lợi suất trái phiếu chính phủ về mức 0%, và các nhà đầu tư sẽ hưởng lợi. Tuy nhiên, thị trường trái phiếu Trung Quốc dường như chưa đủ hấp dẫn so với Ấn Độ, Indonesia, nơi các NHTW có nhiều dư địa để hạ lãi suất hơn. Hơn nữa, khi lãi suất trái phiếu giảm thấp, các NHTM Trung Quốc sẽ hấp thụ được phần lớn trái phiếu phát hành, nếu GDP tăng thấp.

Tại các nước áp dụng cơ chế tỷ giá neo với USD, chính sách tiền tệ thường đồng hành với các động thái của Fed. Việc Hội đồng hợp tác vùng Vịnh (GCC) cắt giảm lãi suất có thể thúc đẩy tăng trưởng ở các lĩnh vực nhạy cảm với điều kiện tín dụng, như bất động sản và chi tiêu trong nước, từ đó tăng cường khả năng phục hồi của nền kinh tế trong bối cảnh hầu hết GCCs đang triển khai các kế hoạch để đa dạng hóa nguồn thu và thúc đẩy tăng trưởng trong lĩnh vực phi dầu mỏ.

Nhìn chung, các yếu tố cơ bản tác động đến làn sóng điều chỉnh lãi suất là sự khác biệt về lãi suất và nỗ lực của EMDEs cũng như chỉ số biến động thị trường (VIX). Tuy nhiên, sức mạnh ngày càng tăng của USD đóng vai trò chi phối và dẫn dắt xu hướng này. Trong đó, khả năng Fed cắt giảm lãi suất ít hơn sau cuộc bầu cử Mỹ sẽ định hình xu hướng chính sách tại các nước đang phát triển. Hầu hết các NHTW tại EMDEs sẽ thận trọng hơn trong năm 2025, khi USD sẽ tiếp tục tăng và mạnh hơn so với hầu hết các đồng tiền mới nổi.

Năm bầu cử 2024

Cùng với chu kỳ hạ lãi suất, các cuộc bầu cử cũng góp phần đáng kể vào xu hướng thị trường 2024, khi hơn 2 tỷ người tại khoảng 50 quốc gia (chiếm trên 60% GDP toàn cầu) sẽ tham gia các cuộc bầu cử - năm có nhiều cuộc bầu cử nhất từ trước đến nay, định hình bức tranh chính trị thế giới năm 2024 và nhiều năm tiếp theo. Theo JPMorgan, kết quả bầu cử gây tác động lớn tới thị trường chứng khoán và nền kinh tế thế giới. Bao gồm: sự phân cực, chủ nghĩa dân túy, xu hướng suy thoái dân chủ và phân đoạn địa kinh tế thế giới. Sau cùng, làn sóng bầu cử năm 2024 có thể tác động tiêu cực tới tăng trưởng toàn cầu, gây áp lực lên các cổ phiếu tăng trưởng (so với các cổ phiếu giá trị).

Cuộc bầu cử Tổng thống Nga (15-17/3/2024) với chiến thắng tiếp tục của ông Putin cho nhiệm kỳ 2024-2030 đã tạo cú hích cho tăng trưởng và các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh nâng dự báo kinh tế Nga năm 2024 lên 3,6%, nhưng kéo theo mức lạm phát 9,5%, thị trường chứng khoán trồi sụt, chỉ số MOEX Russia đóng cửa năm 2024 ở mức 2.883,04 điểm, giảm 7,49% so với đầu năm. Trong năm 2025, GDP tại Nga có thể sẽ chỉ tăng 1,3%, do mức lương tăng thấp sẽ cản trở tiêu dùng và đầu tư.

Tại châu Âu, xu hướng cực hữu dân tộc chủ nghĩa lớn mạnh trên chính trường còn vì chính sách tiếp nhận nhập cư kém hiệu quả của EU trong suốt thập niên qua. Trong khi đó, các đảng cực hữu châu Âu có chủ trương chú trọng quyền lợi quốc gia, giảm mức độ hội nhập và hạn chế nhập cư. Bên cạnh chủ nghĩa dân túy, các cuộc bầu cử trên thế giới năm 2024 sẽ tiếp tục chứng kiến sự suy thoái của chủ nghĩa dân chủ và điều này cũng tác động đáng kể tới thị trường.

Như thường lệ, chính sách tài khóa tiền tệ đều nới lỏng trong một thời gian khá dài cho đến khi bầu cử để củng cố niềm tin của các cử tri. Tuy nhiên, các cuộc bầu cử năm nay diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế còn nhiều bất ổn, với tâm điểm là kinh tế giảm tốc. Các điểm nóng xung đột tại Ukraine và Trung Đông vẫn chưa hạ nhiệt, cạnh tranh chiến lược giữa các nước vẫn phức tạp. Kết quả bầu cử, đặc biệt tại các nước lớn đang tác động tới tình hình chính trị và kinh tế thế giới, tạo ra những thay đổi mang tính bước ngoặt đối với trật tự quốc tế, cán cân địa - chính trị cũng như các cuộc xung đột, khủng hoảng và quan hệ kinh tế, thương mại toàn cầu.

Triển vọng năm 2025

Năm 2025 được nhận định là năm khó khăn đối với các nhà hoạch định chính sách tài khóa tiền tệ. Sự trở lại của Tổng thống đắc cử Donald Trump đang định hình lại xu hướng chính sách toàn cầu. Nếu chính quyền Trump 2.0 thực thi chủ trương áp thuế 60% lên hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và áp mức thuế 10% đối với hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia và vùng lãnh thổ khác.

Mặc dù có thể tăng 5,0% trong năm nay, kinh tế Trung Quốc có nguy cơ sẽ giảm tốc xuống mức tăng 3,4% trong năm 2025. Tác động của thuế quan của Mỹ đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc sẽ làm trầm trọng thêm các vấn đề cơ cấu hiện đang xói mòn tiềm năng kinh tế trong nước, bao gồm cuộc khủng hoảng bất động sản và tình trạng dân số già hóa. Ngoài Trung Quốc, tăng trưởng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất ở các nền kinh tế có tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ cao, bao gồm: Canada, Mêhicô, Việt Nam, Ấn Độ, v.v.

Với chủ trương áp đặt mức thuế phổ thông 10%, chính sách mong đợi của ông Trump có thể châm ngòi cho cuộc chiến trên thị trường thương mại điện tử. Chính sách này có thể đẩy giá USD tăng 4-6% trong năm tới, nhiều đồng tiền khác sẽ mất giá. Trong đó, CNY, EUR và peso của Mêhicô có nguy cơ tiếp tục trượt giá. Trong ngày đầu năm 2025, chỉ số USD đã lên trên 109, nhấn chìm nhiều đồng tiền chủ chốt, trong đó CNY giảm sâu xuống mức tỷ giá 7,32 CNY/USD.

Để kiềm chế xu hướng giảm tốc kinh tế và thúc đẩy chi tiêu dùng trong nước, chính phủ Trung Quốc tái khẳng định cam kết sẽ mở rộng thâm hụt ngân sách và tăng chi tiêu, nới lỏng tiền tệ hơn nữa. Trong năm 2025, Trung Quốc dự kiến phát hành trái phiếu Chính phủ đặc biệt kỷ lục lên tới 3.000 tỷ CNY, tăng ba lần so với mức 1.000 tỷ CNY trong năm 2024, lợi suất trái phiếu 10 năm có thể giảm xuống vùng 1,5-1,6% vào cuối năm 2025.

Trong nhiệm kỳ trước của ông Trump, CNY đã mất giá khoảng 5% so với USD trong đợt áp thuế quan đầu tiên của Mỹ lên hàng hóa Trung Quốc vào năm 2018, và giảm thêm 1,5% trong năm 2019 khi cuộc chiến thương mại leo thang. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm nay, ông Trump đề xuất ý tưởng áp thuế quan 60% lên toàn bộ hàng hóa từ Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ. Điều này cùng với các chính sách khác của ông Trump được dự báo sẽ khiến lạm phát ở Mỹ tăng lên, theo đó giữ lãi suất ở Mỹ duy trì ở mức tương đối cao so với tại một số nước khác.

Với hy vọng giảm dần mức độ phụ thuộc vào USD, nhóm các nước mới nổi BRICS đã kêu gọi thành lập đồng tiền riêng và tăng cường kết nạp thêm các thành viên mới và các quốc gia đối tác. Tính đến nay, BRICS bao gồm 10 quốc gia thành viên. Ngoài ra, Belarus, Bolivia, Indonesia, Kazakhstan, Thái Lan, Cuba, Uganda, Malaysia và Uzbekistan sẽ chính thức trở thành đối tác của BRICS kể từ ngày 01/01/2025.

Trong năm 2024, thị trường quỹ hoán đổi danh mục (ETF) Mỹ thu hút hơn 1,000 tỷ USD, phá vỡ kỷ lục được thiết lập cách đây ba năm. Như thường lệ, các quỹ S&P 500 lớn nhất tiếp tục dẫn đầu về dòng vốn vào. QQQ của Invesco, quỹ theo dõi chỉ số Nasdaq-100 tập trung vào công nghệ, đã thu hút hơn 27 tỷ USD vốn mới tính đến giữa tháng 12 - một con số ấn tượng so với mức 7,3 tỷ USD trong năm 2023. Thành công này đang thổi bùng kỳ vọng về một năm 2025 còn bứt phá hơn nữa của Phố Wall. Thậm chí, chính sách thuế thấp hơn và việc nới lỏng quy định có thể tiếp tục thúc đẩy thị trường chứng khoán trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump.

Theo nhận định của nhiều chuyên gia, đà phát triển của AI và công nghệ dẫn dắt trong hai năm 2023-2024 đang phai nhạt dần, dẫn đến một đợt điều chỉnh trong năm 2025 trên thị trường chứng khoán Mỹ, nhưng có thể vẫn được bù đắp phần nào bởi những tiến bộ từ xu hướng nghiên cứu phát triển công nghệ mới trong năm 2025.

Hoàng Thế Thoả

(Nguồn: Bloomberg, CNBC, Finacial Times, Market Watch, Reuters, WSJ)

 

1

 

  • aA
  • Categories:
  • Fintech - Nghiên cứu trao đổi
  • Chuyên đề khác
OTHER NEWS
Triển vọng Fintech toàn cầu: Từ tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng bền vững
3/7/26
Chuyển đổi số ở các ngân hàng thương mại Việt Nam: Thành tựu, thách thức và một số kiến nghị hoàn thiện
2/7/25
Fed đề xuất nới lỏng quy định vốn: Động thái hỗ trợ thị trường trái phiếu Kho bạc
2/6/27
Tăng cường ổn định tài chính nâng cao khả năng chống chịu trong bối cảnh kinh tế hiện nay
3/6/25
Lộ trình giảm lãi suất trong năm 2025 được mở ra từ Fed
2/6/25
ECB cảnh báo nguy cơ suy giảm niềm tin ngân hàng từ tài sản mã hóa
5/6/25
ECB điều chỉnh chính sách trong bối cảnh lạm phát hạ nhiệt
6/6/25
Thụy Sĩ: Chỉ số giá tiêu dùng vào vùng giảm phát, yếu tố thúc đẩy nới lỏng tiền tệ
5/6/25
Hạn hán - Thách thức mới cho ổn định tài chính Khu vực đồng Euro
2/6/25
Liệu ECB có cắt giảm lãi suất vào tháng 6/2025?
2/6/25
Showing 1 to 10 of 1071
  • 1
  • 2
  • 3
  • 108
About SBV
  • History
  • Major Responsibilities
  • Management Board
  • Former Governors
CPI
Reserve requirement
Interest Rate
Money Market Operations
  • Notification of New Offering off the State Bank Bills
  • Invitation for Gold Auctions
  • Open Market Operations
  • Auctions for State Treasury bills
System of Credit Institutions
  • Banks
    • Commercial Banks
      • State-owned Commercial Banks
      • Joibt-stock Commercial Banks
      • Wholly Foreign Owned Banks
      • Joint-venture Banks
    • Policy Banks
    • Cooperative Banks
  • Non-Banks Credit Institution
    • Finance Companies
    • Leasing Companies
    • Other non-bank credit Institutions
  • Micro finance Institutions
  • People's Credit Fund
  • Foreign Bank Branches
  • Representative Offices
Search Bar
TIN VIDEO
Banking Sector’s Efforts to achieve the economic growth target in 2025
Banking Sector’s Efforts to achieve the economic growth target in 2025
TIN ẢNH
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025
TIN ẢNH
Calendar Icon LỊCH LÀM VIỆC CỦA BAN LÃNH ĐẠO Microphone Icon CÁC BÀI PHÁT BIỂU Chart Icon CPI Percentage Icon LÃI SUẤT Money Icon DỰ TRỮ BẮT BUỘC Graduation Icon GIÁO DỤC TÀI CHÍNH Newspaper Icon THÔNG CÁO BÁO CHÍ ẤN PHẨM PHÁT HÀNH
Ngân hàng
ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2025-2030 Chuyển đổi số
Danh Bạ Liên Hệ Phản Ánh Kiến Nghị Đường Dây Nóng
© state bank of vietnam portal
Address: 49 Ly Thai To - Hoan Kiem - Hanoi
Webmaster: (84 - 243) 266.9435
Email: thuongtrucweb@sbv.gov.vn rss
NCSC Certification
State Bank hotline: (84 - 243) 936.6306
Information security: phone number: (+84)84.859.5983, email: antt@sbv.gov.vn
IPv6 Ready
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

publications of the banking times

Digital Bankingtimes

logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan
logo-tinhvan

Các ấn phẩm của thời báo ngân hàng

Cổng thông tin điện tử NHNN
Thời báo Ngân Hàng
Tạp chí Ngân hàng

Digital Bankingtimes

Digital Banking Times Logos