NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 136 /BC-NHNN Hà Nội, ngày 16 tháng 10 năm 2018
BÁO CÁO
Về thực hiện Nghị quyết số 113/2015/QH13 Quốc hội khóa XIII và
Nghị quyết số 63/2018/QH14 Quốc hội khóa XIV của Quốc hội
về hoạt động giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn
Kính gửi:
- Quốc hội;
- Các vị đại biểu Quốc hội.
A. THÔNG TIN CHUNG
Trên cơ sở rà soát nội dung tại các Nghị quyết của Quốc hội về hoạt động giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn, tại Nghị quyết số 113/2015/QH13 ngày 27/11/2015 Quốc hội khóa XIII có nhiệm vụ liên quan đến hoạt động ngân hàng, cụ thể như sau:
- Chú trọng xây dựng, hoàn thiện và vận hành có hiệu quả thị trường tiền tệ.
- Tăng cường thanh tra, kiểm soát, xử lý sai phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
- Ban hành chính sách đồng bộ để tiếp tục giảm và khống chế nợ xấu.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).
Trên cơ sở bám sát các nội dung, văn bản chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã triển khai chủ động, linh hoạt, thận trọng và hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng và đã đạt được một số kết quả nổi bật, góp phần hoàn thành các nhiệm vụ Quốc hội giao, cụ thể: (i) Kiểm soát lạm phát và neo giữ kỳ vọng lạm phát ở mức thấp dưới 4%; (ii) Tỷ giá và thị trường ngoại hối cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng lên mức cao nhất từ trước đến nay; (iii) Ổn định được mặt bằng lãi suất phù hợp với cân đối kinh tế vĩ mô (iv) Tín dụng tăng trưởng hợp lý, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đảm bảo nguồn cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, hỗ trợ quá trình hồi phục tăng trưởng vững chắc; (v) Công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu được triển khai mạnh mẽ, theo đúng lộ trình, kế hoạch, đạt được kết quả ban đầu quan trọng: Năng lực quản trị, điều hành, tình hình tài chính, chất lượng tài sản của TCTD được cải thiện; tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm và tiếp tục duy trì ở mức dưới 3%; thanh khoản hệ thống duy trì ổn định; công tác thanh tra, giám sát được tăng cường, chấn chỉnh, đảm bảo an toàn hệ thống, hỗ trợ tái cơ cấu và xử lý nợ xấu; (vi) Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế; (vii) Trong bối cảnh rủi ro toàn thế giới tăng lên, Fitch ratings và Moody’s đã lần lượt nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam vào tháng 5 và tháng 8 lên BB và Ba3.
B. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 113/2015/QH13 VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI KHÓA XIII VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ, HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
I- ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ, TÍN DỤNG
1. Điều hành chính sách tiền tệ
a. NHNN đã điều hành linh hoạt, chủ động nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết vốn khả dụng và kiểm soát tiền tệ, giữ ổn định các loại tỷ lệ dự trữ bắt buộc tạo điều kiện linh hoạt cho điều hành CSTT để góp phần ổn định thị trường, lãi suất, đồng thời chủ động kiểm soát tiền tệ. Điều hành công cụ tái cấp vốn phù hợp với chủ trương của Chính phủ, mục tiêu điều hành của NHNN và nhu cầu vốn của TCTD, trong đó: xem xét tái cấp vốn hỗ trợ khả năng chi trả cho TCTD gặp khó khăn về thanh khoản theo quy định; tiếp tục xử lý đề nghị tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của VAMC nhằm hỗ trợ nguồn vốn hoạt động của TCTD trong quá trình xử lý nợ xấu.
b. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ và diễn biến lạm phát
Trong hơn 8 tháng đầu năm, mặt bằng lãi suất về cơ bản được tiếp tục duy trì ổn định1 trong điều kiện lãi suất các nước trên thế giới đang tăng lên. Kết quả trên là do NHNN điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT, trong đó tập trung thực hiện điều tiết thanh khoản thị trường liên ngân hàng ổn định, lãi suất liên ngân hàng ở mức hợp lý để hỗ trợ ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện ổn định mặt bằng lãi suất của các TCTD. Đồng thời, trên cơ sở xem xét, phân tích các yếu tố vĩ mô, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất chào mua OMO từ 5%/năm xuống 4,75%/năm để góp phần giảm chi phí vốn cho TCTD; chỉ đạo các TCTD tiếp tục rà soát và cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng vay và đảm bảo an toàn hoạt động.
c. Điều hành tỷ giá: Trong những tháng đầu năm, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định. Từ ngày 07/02/2018, NHNN bắt đầu niêm yết tỷ giá mua kỳ hạn 3 tháng, góp phần kiểm soát cung ứng tiền trong khi vẫn mua được ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Từ cuối tháng 6, tỷ giá có diễn biến tăng và thiết lập mặt bằng mới do áp lực từ những biến động bất lợi của kinh tế thế giới. Để ổn định tỷ giá, NHNN đã chủ động, kịp thời điều hành tỷ giá trung tâm linh hoạt; phối hợp đồng bộ với các biện pháp khác như điều tiết thanh khoản, lãi suất tiền VND hợp lý thực hiện các biện pháp thông tin, truyền thông; bán ngoại tệ khi cần thiết để ổn định thị trường. Với các biện pháp điều hành quyết liệt của NHNN và các thông tin thị trường bớt tiêu cực hơn, căng thẳng trên thị trường ngoại tệ đã giảm bớt, thanh khoản thị trường vẫn đảm bảo, các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước2.
d. Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô: NHNN đã điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo thanh khoản của các TCTD, qua đó, hỗ trợ phát hành trái phiếu Chính phủ với lãi suất hợp lý Thường xuyên trao đổi với Bộ Tài chính các thông tin về diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ, biến động thu - chi của NSNN, biến động số dư tiền gửi Kho bạc và phối hợp chặt chẽ trong việc chuyển số dư tiền gửi của Kho bạc Nhà nước về NHNN để hỗ trợ ổn định thị trường tiền tệ.
Nhờ các giải pháp điều hành chủ động, linh hoạt nêu trên, tính đến ngày 04/10/2018, các chỉ số vĩ mô cơ bản như sau: Tổng phương tiện thanh toán tăng 8,85% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ 2017 tăng 10,37%); huy động vốn tăng 9,48% (cùng kỳ 2017 tăng 11,05%), tín dụng tăng 9,89% (cùng kỳ 2017 tăng 11,73%); lạm phát bình quân 9 tháng đầu năm 2018 tăng 3,57% (cùng kỳ 2017 tăng 3,79%; lạm phát cơ bản 9 tháng đầu năm 2018 tăng 1,41% (cùng kỳ 2017 tăng 1,45%).
2. Chỉ đạo mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn ngân hàng
Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2018 là 6,7% và lạm phát bình quân khoảng 4% được Quốc hội và Chính phủ đặt ra từ đầu năm, NHNN đã điều hành tín dụng đảm bảo hiệu quả, chất lượng, bằng các giải pháp sau:
- Ngay từ đầu năm, NHNN đã xây dựng và thực hiện các biện pháp kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo chỉ tiêu định hướng cả năm 2018, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến và tình hình thực tế; thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng TCTD trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động và khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh của từng TCTD. Ngày 02/08/2018, NHNN đã ban hành Chỉ thị 04/CT-NHNN về việc tiếp tục triển khai hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng trong những tháng cuối năm 2018, trong đó chỉ đạo các TCTD tập trung kiểm soát chặt chẽ tốc độ và chất lượng tín dụng của toàn hệ thống; Không xem xét, điều chỉnh tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (trừ trường hợp đặc biệt, như một số NHTM tham gia tái cơ cấu trong năm 2018 đối với các TCTD yếu kém); Tiến hành kiểm tra các TCTD có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao vào lĩnh vực bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ,...
- Triển khai các giải pháp hỗ trợ TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên gồm nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao,...;
- Theo dõi sát tình hình cấp tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro để kịp thời triển khai những giải pháp tăng cường kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng; Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ đảm bảo phù hợp với chủ trương của Chính phủ về hạn chế Đô la hóa trong nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường tiền tệ;
- Tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi trong vay vốn tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa như: Chỉ đạo các TCTD đổi mới quy trình, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, xây dựng các chương trình, gói tín dụng với lãi suất hợp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)3; cho phép TCTD được quyết định cho khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn trong nước thực hiện phương án sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đến hết ngày 31/12/2018; chỉ đạo NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố phối hợp các TCTD thực hiện hiệu quả Chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp thông qua các cuộc đối thoại trực tiếp nhằm kịp thời nắm bắt, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý4.
- Chủ động phối hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, tín dụng chính sách theo chủ trương của Chính phủ.
Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp nói trên, tín dụng tăng trưởng theo sát các chỉ tiêu đề ra và đã hỗ trợ tích cực trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế. Từ năm 2016 đến nay, tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm dần nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế được cải thiện vững chắc, cho thấy tín dụng được sử dụng hiệu quả và được phân bổ phù hợp5. Đến ngày 4/10/2018, tín dụng tăng 9,89% so với cuối năm 20176, cùng với mặt bằng lãi suất được giữ ổn định đã đáp ứng tốt cho nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Tín dụng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ7. Tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ8.
3. Khó khăn, thách thức:
- Đối với điều hành CSTT: Điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới tiếp tục đối mặt với các khó khăn thách thức như: giá các hàng hóa quan trọng, thiết yếu trên thị trường thế giới (đặc biệt là giá nhiên liệu, lương thực thực phẩm ...) biến động, có thể làm tăng áp lực lạm phát trong nước; kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong nước có thể chịu áp lực từ những diễn biến khó lường từ thị trường thế giới (xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ của các nước, tăng trưởng kinh tế thế giới được dự đoán bắt đầu xu hướng giảm tốc, dòng vốn tiếp tục dịch chuyển khỏi các thị trường mới nổi, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang…).
- Đối với điều hành tín dụng:
+ Việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản (BĐS) luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ngân hàng do các quy định pháp luật hiện hành đối với lĩnh vực BĐS còn nhiều bất cập, đặc biệt là các quy định điều chỉnh đối với một số loại hình BĐS mới9; việc định giá tài sản đảm bảo là BĐS gặp khó khăn do đây là tài sản đặc biệt, có lợi nhuận kỳ vọng cao, có nhiều hoạt động đầu cơ, thao túng giá thị trường nên dẫn đến giá cả BĐS không phản ánh đúng giá trị tài sản; sự chênh lệch về kỳ hạn và lãi suất giữa nguồn vốn huy động và cho vay; hệ thống thông tin chính thức về thị trường BĐS còn hạn chế dẫn đến các TCTD gặp khó khăn trong dự báo nguồn cung, trong đánh giá sự phù hợp về giá, phân khúc khách hàng,...
+ Đối với các dự án BOT, BT giao thông, các TCTD có thể gặp rủi ro trong dài hạn do việc thu hồi vốn vay đối với các dự án giao thông gặp khó khăn, đặc biệt là các rủi ro xuất phát từ chính sách10, từ chính dự án11 và khách hàng vay vốn12.
+ Tín dụng phục vụ đời sống tăng là tín hiệu tích cực để thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, tuy nhiên nếu không được kiểm soát theo đúng mục đích và đối tượng vay vốn sẽ tiềm ẩn rủi ro trong thời gian tới.
II- XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA, GIÁM SÁT
1. Về hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ xử lý nợ xấu, tái cơ cấu TCTD yếu kém
- NHNN đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về xử lý nợ xấu (Nghị quyết 42/2017/QH14) và Luật sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD (Luật số 17/2017/QH14).
Trong đó, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định một số chính sách thí điểm về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đã giúp các TCTD xử lý nợ xấu nhanh hơn, tạo điều kiện phát triển thị trường mua bán nợ, bảo đảm quyền chủ nợ hợp pháp, từ đó giúp hệ thống các TCTD phát huy tốt hơn vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế. Luật sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD (Luật số 17/2017/QH14) sửa đổi, bổ sung 32 Điều; bổ sung mới 28 Điều của Luật Các TCTD 2010 với các nội dung cơ bản tập trung vào: Nâng cao năng lực quản trị, điều hành của TCTD; Minh bạch hóa nguồn vốn góp, xử lý sở hữu chéo; Hạn chế tình trạng cổ đông lớn thao túng, chi phối hoạt động của TCTD; Cắt giảm điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính; Áp dụng can thiệp sớm nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho việc phát hiện, xử lý sớm các TCTD có dấu hiệu yếu kém; Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý TCTD yếu kém, trong đó sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung liên quan đến cơ chế xử lý TCTD được kiểm soát đặc biệt, đồng thời phân định rõ thẩm quyền của cơ quan Nhà nước trong quá trình kiểm soát đặc biệt. Việc tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua 2 văn bản pháp lý quan trọng này giúp tháo gỡ kịp thời các vướng mắc pháp lý để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, xử lý nợ xấu.
Để triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD 2010, Thống đốc NHNN đã ký ban hành 15 Thông tư và tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 01 Quyết định về điều kiện, hồ sơ, trình tự đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn quy định tại Luật các TCTD. Đặc biệt, với việc ban hành Thông tư 13/2018/TT-NHNN ngày 18/5/2018 quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại (NHTM), chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã góp phần thay đổi về chất trong công tác quản trị điều hành, quản trị rủi ro và kiểm soát của TCTD; giúp ngăn ngừa, cảnh báo, xử lý kịp thời sai phạm và rủi ro, góp phần giảm thiểu khả năng tổn thất, nguy cơ đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, NHNN đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Hiện nay, NHNN đang khẩn trương hoàn thiện để sớm ban hành Đề án củng cố và phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; hoàn chỉnh dự thảo Quy định thay thế Quy định về xếp hạng các ngân hàng thương mại cổ phần ban hành kèm theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN ngày 12/3/2008.
Nhìn chung, khuôn khổ pháp lý về cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các TCTD đã được hoàn thiện một bước quan trọng, tạo sự đồng bộ, hiệu quả, khả thi, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, đảm bảo ổn định, an toàn, lành mạnh thị trường tài chính tiền tệ.
- Để kịp thời đánh giá các kết quả đạt được, các tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các TCTD, ngày 28/8/2018, NHNN đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn ngành Ngân hàng sơ kết 01 năm triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Quyết định số 1058/QĐ-TTg và Hội nghị chuyên đề về quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) nhằm đánh giá toàn diện thực trạng hoạt động của các QTDND, tồn tại, hạn chế trong công tác quản trị, điều hành, kiểm toán nội bộ và hoạt động của QTDND; từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm thực hiện có hiệu quả, nâng cao vai trò của QTDND. Sau Hội nghị, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 17/9/2018 về tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu và Chỉ thị 06/CT-NHNN ngày 02/10/2018 về việc chấn chỉnh, tăng cường phòng, chống, ngăn ngừa vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động trong hệ thống QTDND. Đồng thời, sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc tăng cường giải pháp nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống QTDND.
2. Về xử lý, kiểm soát nợ xấu
NHNN đã chỉ đạo các TCTD tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới; tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc khách hàng trả nợ; bán, phát mại tài sản bảo đảm của khoản nợ; bán nợ theo cơ chế thị trường; sử dụng dự phòng rủi ro; tích cực áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42...
Nhờ các giải pháp tích cực từ phía ngành Ngân hàng cùng với sự phối hợp, hỗ trợ từ chính quyền địa phương và các Bộ, ngành trong việc triển khai Nghị quyết 42, việc xử lý tài sản đảm bảo, thu hồi và xử lý nợ xấu đã đạt được kết quả khả quan. Nợ xấu được kiểm soát dưới 3% như mục tiêu đề ra. Đến cuối tháng 6/2018, tổng nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD là 164,96 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,09% tổng dư nợ (thấp hơn mức 2,46% năm 2016 và 2,55% năm 2015). Từ năm 201213 đến cuối tháng 6/2018, toàn hệ thống xử lý được 785,93 nghìn tỷ đồng nợ xấu.
Bên cạnh kết quả tích cực trong xử lý nợ xấu nói chung, xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 cũng đạt được kết quả bước đầu. Từ 15/8/2017 đến 30/6/2018, tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 của toàn hệ thống TCTD được xử lý đạt 138,29 nghìn tỷ đồng.
3. Về cơ cấu lại hệ thống các TCTD:
- NHNN đã chỉ đạo triển khai quyết liệt các nhiệm vụ được giao tại Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” ban hành theo Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017. Đến nay, NHNN đã hoàn thành việc phê duyệt phương án của phần lớn các TCTD.
- Năng lực tài chính của các TCTD được củng cố, vốn điều lệ tăng qua các năm14. Tính đến cuối tháng 7/2018, vốn điều lệ của toàn hệ thống ước đạt 555,18 nghìn tỷ đồng, tăng 8,3% so với cuối năm 2017. Vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống ước đạt 731,04 nghìn tỷ đồng (tăng 10,8% so với cuối năm 2017); tổng tài sản của toàn hệ thống đạt 10,46 triệu tỷ đồng (tăng 4,6%).
- Chất lượng tài sản của TCTD được cải thiện, cơ cấu danh mục đầu tư, cơ cấu tài sản có dịch chuyển theo hướng tích cực, an toàn hơn, dòng vốn tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, tỷ trọng tài sản có rủi ro cao có xu hướng giảm; sự cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có của TCTD chuyển biến tích cực, thanh khoản hệ thống duy trì ổn định.
- Việc thoái vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp theo chủ trương của Chính phủ đã được NHNN chỉ đạo quyết liệt, sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý một bước quan trọng, tình trạng cổ đông/ nhóm cổ đông lớn có tính chất thao túng, chi phối ngân hàng về cơ bản được kiểm soát.
- Năng lực quản trị điều hành, hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ và quản lý rủi ro của các TCTD từng bước được nâng cao để tiệm cận với thông lệ quốc tế, sự minh bạch trong hoạt động của hệ thống các TCTD đã được nâng cao một bước.
4. Về nâng cao hiệu quả hoạt động của VAMC
- Nhằm nâng cao năng lực tài chính cho VAMC để bổ sung nguồn vốn mua nợ xấu theo giá thị trường theo lộ trình quy định tại Đề án 1058, căn cứ ý kiến chỉ đạo của Chính phủ và sau khi xin ý kiến của các Bộ, ngành, đơn vị liên quan đối với dự thảo Đề án Cơ cấu lại và nâng cao năng lực của VAMC giai đoạn 2017-2020 và hướng tới năm 202215, NHNN đã hoàn thiện và phê duyệt Đề án theo Quyết định số 28/QĐ-NHNN ngày 05/01/2018. Đồng thời, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương cấp vốn điều lệ theo quy định tại Nghị định 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015 và đã thực hiện trích Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia để chuyển cấp số tiền 1.500 tỷ đồng bổ sung vốn điều lệ cho VAMC, lên mức 2.000 tỷ đồng theo quy định hiện hành.
- Đối với các khoản nợ mua bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB): Theo báo cáo của VAMC, lũy kế đến 30/6/2018, VAMC đã thực hiện mua nợ thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt của 26.263 khoản nợ tại 42 TCTD với tổng dư nợ gốc nội bảng là 310.597 tỷ đồng, giá mua nợ là 279.775 tỷ đồng; VAMC đã phối hợp với các TCTD xử lý nợ đạt 95.349 tỷ đồng (bao gồm các biện pháp bán nợ/bán TSBĐ, bán lại nợ cho TCTD…). Trong đó, riêng trong năm 2017, sau khi Nghị quyết số 42 được ban hành, VAMC đã thu hồi nợ được 30.852 tỷ đồng, tăng mạnh (gần 2.000 tỷ đồng) so với năm 2016.
- Đối với các khoản nợ mua theo giá trị thị trường: Lũy kế đến 30/6/2018, VAMC đã thực hiện mua nợ theo giá trị thị trường với tổng giá mua nợ đạt 3.523,40 tỷ đồng (dư nợ gốc đạt 3.271,3 tỷ đồng). Sau khi mua nợ theo giá trị thị trường, VAMC đã triển khai ngay các giải pháp xử lý nợ phù hợp để thu hồi nợ (thường xuyên đôn đốc khách hàng trả nợ, áp dụng các biện pháp cơ cấu lại nợ, thu giữ, bán đấu giá, bán thỏa thuận tài sản, hỗ trợ bên mua tài sản hoàn thiện các thủ tục pháp lý liên quan đến chuyển nhượng dự án…). Tính đến 30/6/2018, VAMC đã thu hồi được 2.909,4 tỷ đồng, tương ứng với hơn 82% tổng giá mua nợ của các khoản nợ đã mua theo giá trị thị trường, chênh lệch tài chính từ hoạt động mua nợ thị trường lũy kế ước đạt 52 tỷ đồng16.
5. Tăng cường thanh tra, kiểm soát, xử lý sai phạm trong lĩnh vực ngân hàng:
- Trong 9 tháng đầu năm 2018, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, NHNN tiếp tục chủ động tăng cường công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, ngăn chặn, phát hiện và xử lý kiên quyết các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD, thúc đẩy các TCTD triển khai nghiêm túc, có hiệu quả Đề án 1058. Trong 9 tháng đầu năm 2018, NHNN đã thực hiện 884 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với các TCTD (656 cuộc thanh tra và 228 cuộc kiểm tra); ban hành kết luận thanh tra, biên bản kiểm tra đối với 754 cuộc thanh tra, kiểm tra (bao gồm cả các cuộc thanh tra, kiểm tra chưa ban hành kết luận trong kỳ trước chuyển sang). Về cơ bản, khuôn khổ pháp lý cho công tác thanh tra đã được kiện toàn một bước quan trọng17; các cuộc thanh tra được triển khai nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nội dung và kế hoạch thanh tra. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, những hạn chế, tồn tại, sai phạm của các TCTD đã được phát hiện. NHNN đã đưa ra 6.660 kiến nghị, yêu cầu TCTD khắc phục tồn tại, sai phạm; ban hành 102 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với TCTD và doanh nghiệp, cá nhân với tổng số tiền phạt trên 6 tỷ đồng. Ngoài ra, NHNN cũng đã áp dụng một số biện pháp xử lý đối với tổ chức, cá nhân nhằm kiện toàn tổ chức, ổn định bộ máy hoạt động tại một số TCTD (trong đó chủ yếu là tại các Quỹ Tín dụng nhân dân). Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và xử lý sau thanh tra tiếp tục được quan tâm thực hiện chặt chẽ, sát sao nhằm bảo đảm TCTD thực hiện nghiêm túc các kiến nghị, kết luận về thanh tra, kiểm tra.
- Công tác giám sát ngân hàng cũng tiếp tục được đổi mới và tăng cường trên cơ sở hoàn thiện, triển khai các công cụ, phương pháp giám sát mới gắn liền với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển cơ sở dữ liệu và hệ thống tiêu chí giám sát và từng bước chuyển dần từ giám sát tuân thủ sang kết hợp giữa giám sát tuân thủ và giám sát trên cơ sở rủi ro. Phạm vi giám sát được mở rộng, bao gồm cả các công ty con, chi nhánh của TCTD ở nước ngoài, sở hữu vốn, đầu tư tài chính của TCTD. Nội dung giám sát không chỉ dừng ở việc giám sát việc tuân thủ pháp luật, chấp hành các tỷ lệ, giới hạn an toàn hoạt động mà còn chú trọng đánh giá, cảnh báo rủi ro trong hoạt động của TCTD. Đặc biệt, NHNN đã ứng dụng, phát triển và từng bước triển khai các công cụ giám sát giúp phát hiện, cảnh báo sớm rủi ro và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
NHNN đã ban hành Thông tư số 08/2017/TT-NHNN ngày 01/8/2017 quy định về về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng và Sổ tay Giám sát ngân hàng hướng dẫn một số nội dung quy định tại Thông tư 08; Thông tư số 04/2018/TT-NHNN ngày 12/03/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08, trong đó bổ sung quy định về áp dụng can thiệp sớm đối với đối tượng giám sát ngân hàng. Các văn bản này đã góp phần chuẩn hóa và thống nhất nội dung, trình tự, thủ tục giám sát TCTD trong toàn hệ thống Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng.
Với việc đổi mới và tăng cường công tác giám sát, nhiều sai phạm và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD được phát hiện. Trong 9 tháng đầu năm 2018 có 23 văn bản cảnh báo, khuyến nghị gửi các TCTD18 về các vi phạm phổ biến như cấp tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích/lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro; huy động vốn và gửi tiền; quản trị điều hành, kiểm tra, kiểm soát nội bộ; vi phạm quy định về tỷ lệ, giới hạn an toàn; vi phạm quy định về hạch toán kế toán, quản lý tài chính; hoạt động ngoại hối và kinh doanh vàng; vốn điều lệ, cổ đông, cổ phần, cổ phiếu; an toàn kho quỹ và vi phạm trong hoạt động thanh toán và công nghệ tin học;...
- Để tăng cường phòng, chống, ngăn ngừa, hạn chế các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN đã ban hành Chỉ thị 07/CT-NHNN ngày 11/10/2017; Ban hành Kế hoạch hành động của Ngành thực hiện Nghị quyết số 88/NQ-CP của Chính phủ triển khai thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW của Trung ương về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”. Tổ chức Hội nghị tăng cường công tác đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động ngân hàng để quán triệt đến tất cả các đơn vị trong toàn Ngành, đảm bảo thực hiện nghiêm túc, chấp hành đầy đủ các quy định về an ninh, an toàn, phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động ngân hàng. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ để kịp thời phát hiện, xử lý các bất cập, hành vi vi phạm quy định pháp luật; Rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định, quy trình nội bộ, đảm bảo minh bạch, chặt chẽ, không tạo sơ hở để lợi dụng, sai phạm.
6. Khó khăn, vướng mắc:
- Việc thực hiện cơ cấu lại đối với các NHTM có vốn Nhà nước gặp khó khăn về vốn, chưa tương xứng với tốc độ phát triển và quy mô hoạt động.
- Việc triển khai Nghị quyết 42 trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là liên quan đến công tác thu giữ TSBĐ, hoạt động thi hành án dân sự, giải quyết tranh chấp tại tòa án liên quan đến xử lý nợ xấu; các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Toà án còn rất hạn chế. Cơ quan thuế các cấp chưa hiểu đúng tinh thần của Nghị quyết số 42 quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ thuế khi xử lý tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu của TCTD; do đó, các TCTD, VAMC khi thu được số tiền từ việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm, chưa được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế...
- Thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu còn hạn chế do chưa có thị trường mua bán nợ thật sự chuyên nghiệp dẫn đến việc mua bán nợ xấu chưa thật sự sôi động, các thương vụ lớn chưa phát sinh nhiều. Bên cạnh đó, việc xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu còn nhiều bất cập nên dự phòng rủi ro vẫn là nguồn chủ yếu để xử lý nợ xấu.
- Việc phối hợp triển khai các giải pháp về xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản chưa được thực hiện quyết liệt, đầy đủ.
III. Kiến nghị, đề xuất
1. Đề nghị Quốc hội xem xét tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý đối với lĩnh vực BĐS (sửa đổi Luật kinh doanh BĐS, Luật nhà ở...); nghiên cứu đề xuất sửa đổi các sắc thuế liên quan đến BĐS để góp phần hạn chế đầu cơ BĐS;...
2. Để đảm bảo Nghị quyết số 42 được triển khai có hiệu quả, đề nghị Quốc hội chỉ đạo: (i) Tòa án nhân dân tối cao khẩn trương có văn bản gửi cơ quan Toà án địa phương yêu cầu các đơn vị này ưu tiên áp dụng các thủ tục rút gọn được quy định tại Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP khi giải quyết các vụ án liên quan đến xử lý nợ xấu. Có thể tiến hành xét xử điểm 1 vụ án theo thủ tục rút gọn, trên cơ sở đó, rút kinh nghiệm để triển khai nhân rộng trong toàn hệ thống ngành Tòa án và bổ sung xây dựng cơ chế chính sách được hoàn chỉnh hơn; (ii) Tòa án nhân dân tối cao xem xét, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) sớm có văn bản chỉ đạo về việc hoàn trả các TSBĐ là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết 42.
3. Trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, đề nghị Quốc hội xem xét, sửa đổi các Nghị quyết của Quốc hội hoặc bổ sung vào Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN (ngoại trừ các NHTM mua bắt buộc).
B. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 63/2018/QH14 VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ 5, QUỐC HỘI KHÓA XIV: Không có nội dung liên quan đến lĩnh vực ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin gửi Quốc hội và các vị Đại biểu Quốc hội./.
Nơi nhận: - Như trên; - Tổng thư ký Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội (Vụ Hành chính 5 bản); - Ban Lãnh đạo NHNN; - Lưu VP, VP1. |
THỐNG ĐỐC (Đã ký) Lê Minh Hưng |