Tại phiên chất vấn kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã giải đáp thẳng thắn và chi tiết các vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm trong lĩnh vực ngân hàng. Các câu hỏi xoay quanh việc điều hành chính sách tiền tệ, quản lý thị trường vàng, tín dụng, xử lý nợ xấu và thúc đẩy phát triển bền vững.
Kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô,
hỗ trợ tăng trưởng
Trần Hương
Tại phiên chất vấn kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã giải đáp thẳng thắn và chi tiết các vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm trong lĩnh vực ngân hàng. Các câu hỏi xoay quanh việc điều hành chính sách tiền tệ, quản lý thị trường vàng, tín dụng, xử lý nợ xấu và thúc đẩy phát triển bền vững.
Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt trong bối cảnh kinh tế biến động
Chính sách tiền tệ, với vai trò là công cụ cốt lõi để ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong bối cảnh biến động toàn cầu ngày càng gia tăng, áp lực trong điều hành chính sách tiền tệ rất lớn.
Trả lời chất vấn, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN luôn kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Để đạt được điều này, NHNN sử dụng đồng bộ các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, bao gồm điều chỉnh lãi suất, tỷ giá và quản lý thanh khoản.
Về lạm phát, Thống đốc cho biết, trong bối cảnh giá cả thế giới biến động, NHNN đã tăng cường phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan để kiểm soát giá cả các mặt hàng thiết yếu, đồng thời đảm bảo cung cầu ngoại tệ. “Chúng tôi áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt với biên độ ±5%, cho phép thị trường tự điều chỉnh trong khuôn khổ kiểm soát của Nhà nước, từ đó hạn chế tác động của lạm phát nhập khẩu”, Thống đốc nói.
Liên quan đến điều hành lãi suất, Thống đốc NHNN cho biết, việc giảm lãi suất là cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp, nhưng không thể đánh đổi bằng việc gia tăng lạm phát. Theo đó, NHNN đã yêu cầu các NHTM giảm biên độ lợi nhuận để hạ lãi suất cho vay, đồng thời triển khai các gói tín dụng ưu đãi để hỗ trợ các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh và khủng hoảng kinh tế.
Từ đầu năm 2024 các TCTD đã triển khai các gói tín dụng ưu đãi trị giá 405.000 tỷ đồng. Đến nay, hơn 27.000 tỷ đồng đã được giải ngân với lãi suất ưu đãi, trong đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã nông nghiệp được ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra, các NHTM đã giảm lãi suất cho vay, với tổng giá trị giảm lãi suất đạt khoảng 82.000 tỷ đồng.
Một thách thức lớn của ngành Ngân hàng khi thực hiện cùng lúc nhiều chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp là nguy cơ nợ xấu tăng.
Trả lời các đại biểu Quốc hội về vấn đề này, Thống đốc cho biết, tỷ lệ nợ xấu gia tăng là một thách thức lớn, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp gặp khó khăn. Để ứng phó, NHNN đã yêu cầu các TCTD thực hiện thẩm định kỹ trước khi cấp tín dụng, đồng thời tích cực xử lý tài sản đảm bảo và hợp tác với các công ty mua bán nợ; Đồng thời với đó, NHNN cũng đang phối hợp với các bộ, ngành để đẩy nhanh tiến độ ban hành các quy định về xử lý nợ xấu, tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD thanh lý tài sản đảm bảo.
Về công tác điều hành tỷ giá, Thống đốc khẳng định, chính sách duy trì lãi suất USD ở mức 0% từ năm 2016 đã giúp hạn chế tình trạng đô la hóa, ổn định dự trữ ngoại hối và tăng niềm tin vào đồng Việt Nam. “Chúng tôi tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến thị trường ngoại hối và sẵn sàng can thiệp khi cần thiết để đảm bảo ổn định tỷ giá”, Thống đốc nhấn mạnh.
Phát huy vai trò các động lực phát triển của nền kinh tế
Phát biểu giải trình, làm rõ thêm nội dung đại biểu quan tâm trước Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, chính sách tài chính và tiền tệ tạo động lực phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra rằng sự thay đổi trong tăng trưởng kinh tế có thể tác động trực tiếp đến hệ thống tín dụng và ngân sách quốc gia. Vì vậy, sự phối hợp nhịp nhàng giữa hai chính sách này là yếu tố then chốt để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng.
Đánh giá cao sự phối hợp giữa chính sách tài khoá và tiền tệ, Phó Thủ tướng cho biết, trong bốn năm qua, thu ngân sách đã vượt dự toán khoảng 1 triệu tỷ đồng, minh chứng cho sự hiệu quả của chính sách tài khóa. Đặc biệt, Chính phủ đã giảm thuế gần 800.000 tỷ đồng để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đồng thời tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế. Những khoản thu tăng thêm đã được phân bổ hợp lý vào đầu tư cơ sở hạ tầng như đường cao tốc và các dự án trọng điểm, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững.
“Nếu trong điều kiện bình thường, thu ngân sách có thể tăng gần 2 triệu tỷ đồng. Đây là minh chứng rõ ràng cho một chính sách tài khóa hợp lý và hiệu quả”, Phó thủ tướng nhấn mạnh.
Cùng với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cũng được điều hành chủ động và kịp thời. Chúng ta đã giữ vững tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và USD. Xử lý hiệu quả các ngân hàng yếu kém, bao gồm việc tái cơ cấu 2 ngân hàng “không đồng” và chuẩn bị xử lý thêm 2 ngân hàng khác. Đảm bảo ổn định hệ thống tín dụng, hỗ trợ tích cực cho nền kinh tế.
Kết quả này đã giúp Việt Nam duy trì GDP ở mức gần 7%, trong khi chỉ số CPI chỉ đạt 3,88% - thấp hơn nhiều so với ngưỡng lạm phát phổ biến trong khu vực.
Liên quan đến các giải pháp trong thời gian tới, Phó Thủ tướng cho biết, đầu tư cơ sở hạ tầng sẽ là ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế. Nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật là rất lớn, đặc biệt là: Đường bộ cao tốc để đạt mục tiêu 5.000 km, tăng gấp 5 lần so với trước đây; Đường sắt cao tốc Bắc - Nam với tổng vốn đầu tư dự kiến 67 tỷ USD. Cùng với đó là chuyển đổi năng lượng, trong đó sẽ tập trung vào điện gió, điện mặt trời, và điện khí hydro để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi năng lượng công bằng.
Chính phủ cũng đã tính toán đến các giải pháp huy động nguồn vốn đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm vốn trong nước; vốn ODA và các hình thức hợp tác công tư (PPP). Đồng thời với đó là phát triển thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp để giảm áp lực lên hệ thống tín dụng.
Với nền tảng kinh tế hiện tại, Phó Thủ tướng tin tưởng rằng Việt Nam có thể đạt quy mô nền kinh tế vài ngàn tỷ USD trong tương lai gần. Ông dự báo GDP năm 2024 sẽ đạt khoảng 470 tỷ USD, nhưng mục tiêu xa hơn là tăng gấp 3-4 lần trong các thập kỷ tới. “Chúng ta cần thúc đẩy các nguồn lực trong nước và quốc tế, kết hợp với các chính sách phù hợp để hiện thực hóa mục tiêu này”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.