Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) hiện nay, chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu. Việc triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” nhằm phổ cập tri thức số cho toàn dân đóng vai trò quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách số, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.
Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)
Tầm quan trọng của phong trào “Bình dân học vụ số”
Từ năm 1945, khi đất nước vừa giành được độc lập, hơn 95% dân số chưa biết đọc, biết viết, “giặc dốt” trở thành một trong ba thứ giặc nguy hiểm (cùng với “giặc đói” và “giặc ngoại xâm”), phong trào “Bình dân học vụ” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động ra đời với mục tiêu cấp bách là xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”; do đó, việc nâng cao dân trí là nền tảng vững chắc để xây dựng một quốc gia độc lập, hùng cường, thịnh vượng. Và với phong trào “Bình dân học vụ”, chỉ trong một thời gian ngắn, hàng triệu người dân Việt Nam đã biết đọc, biết viết, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Được truyền cảm hứng, kế thừa và phát huy tinh thần của phong trào “Bình dân học vụ”, ngày 18/11/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo, phát động phong trào “Bình dân học vụ số” với trọng tâm phổ cập tri thức cơ bản về chuyển đổi số đến mọi tầng lớp nhân dân với kỳ vọng trở thành bước đột phá trong nâng cao nhận thức và kỹ năng số, nhất là cho các đối tượng ở vùng sâu, vùng xa hoặc chưa có điều kiện tiếp cận công nghệ. Phong trào được khởi xướng và ra đời trong bối cảnh kỷ nguyên số, nơi công nghệ trở thành yêu cầu tất yếu của sự phát triển.
Đất nước đang đứng trước cơ hội lịch sử để bước vào kỷ nguyên mới, phát triển mạnh mẽ với động lực chính đến từ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, đó là, phổ cập tri thức, công nghệ về chuyển đổi số, kỹ năng số cho toàn dân, tức là “xóa mù” về chuyển đổi số. Phong trào này được phát động, lan tỏa nhằm tăng năng lực số, khả năng sử dụng các thiết bị và ứng dụng số cho người dân, đặc biệt là những đối tượng ít có điều kiện tiếp cận công nghệ có thể nắm bắt và làm chủ công nghệ số, góp phần nâng cao hiệu suất lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Phong trào này không chỉ dựa vào chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, mà còn chú trọng nâng cao nhận thức, khuyến khích từng cá nhân tự học, chủ động tham gia vào không gian số, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước. Để lan tỏa phong trào “Bình dân học vụ số”, không chỉ cần các quyết sách, sự hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức xã hội, mà hơn hết, người dân cần chủ động học hỏi, sẵn sàng chia sẻ, ứng dụng tri thức số để cùng xây dựng một xã hội tiến bộ trong kỷ nguyên mới. Đây cũng là nền tảng quan trọng để hình thành chính phủ số, xã hội số, kinh tế số, công dân số theo Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Tại Lễ phát động phong trào và ra mắt nền tảng “Bình dân học vụ số” diễn ra ngày 26/3/2025 tại Đại học Bách Khoa Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nêu rõ, đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW; hưởng ứng và thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về học tập suốt đời và triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”.
Theo Thủ tướng, nếu chúng ta nhận thức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay thì không thể không nói đến xã hội số, quốc gia số và công dân số toàn diện, toàn trình; từ đó, không thể không có phong trào “Bình dân học vụ số”.
Có thể nói, phong trào “Bình dân học vụ số” có ý nghĩa quan trọng, nhân văn sâu sắc đối với sự phát triển đất nước, thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong công cuộc phát triển quốc gia số, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, phát triển nhanh, toàn diện và bền vững.
Để “Bình dân học vụ số” trở thành phong trào toàn dân, toàn diện, bao trùm, sâu rộng, không ai bị bỏ lại phía sau
Mục tiêu của phong trào “Bình dân học vụ số” là “xóa mù số” cho toàn dân thông qua việc phổ cập tri thức cơ bản về chuyển đổi số cho toàn dân để góp phần đạt được mục tiêu kép là vừa phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, hoàn thành các mục tiêu cơ bản được nêu trong Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu cơ bản đến năm 2030 của Chương trình chuyển đổi số quốc gia là:
- Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động: 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); Hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật, kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; 70% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
- Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Kinh tế số chiếm 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; Năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII).
- Phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số: Phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang; Phổ cập dịch vụ mạng di động 5G; Tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 80%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Để đạt được các mục tiêu trên, cần sự tham gia của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân, trong đó, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” trở thành nhiệm vụ quan trọng.
Muốn phong trào mang lại hiệu quả thiết thực, cần hài hòa lợi ích riêng và lợi ích chung, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thể, của đất nước. Mỗi đảng viên, cán bộ, công chức phải tiên phong, gương mẫu trong thực hiện phong trào, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động; chuyển đổi quá trình học tập, rèn luyện và ứng dụng tri thức, kỹ năng số trở thành nhu cầu tự thân của mỗi người; đẩy mạnh cắt giảm chi phí đào tạo, tập huấn; hướng tới miễn phí toàn bộ cho người yếu thế, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Kể từ khi được phát động, triển khai, đến nay, phong trào “Bình dân học vụ số” đã lan tỏa rộng khắp trên toàn quốc với sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp trên cả nước. Mục tiêu của phong trào không chỉ dừng lại ở việc phổ cập công cụ, nền tảng học tập kiến thức cơ bản về chuyển đổi số và phát triển kỹ năng số đến các tầng lớp nhân dân, mà còn tạo nên một cuộc vận động thi đua học tập, rèn luyện kỹ năng số và tích cực tham gia vào tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Tại Lễ phát động phong trào và ra mắt nền tảng “Bình dân học vụ số”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết, với mục tiêu của phong trào là phổ cập tri thức, kỹ năng số cơ bản cho mọi người dân với tinh thần cách mạng, toàn dân, toàn diện, bao trùm, sâu rộng, không ai bị bỏ lại phía sau cần phát huy và huy động tổng thể, có hiệu quả các nguồn lực của nhà nước, của xã hội, của doanh nghiệp và của toàn dân; phát huy truyền thống văn hóa, hiếu học, tinh thần học tập suốt đời, khát vọng vươn lên của con người Việt Nam. Bảo đảm các cơ chế, chính sách thông thoáng, phù hợp để triển khai phong trào thiết thực, hiệu quả; thông suốt về hạ tầng, tính đồng bộ, tính liên kết, tính linh hoạt, không hình thức, màu mè và đúng đối tượng; sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tăng cường công khai minh bạch, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Theo đó, Thủ tướng chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp, đặc biệt người đứng đầu phải tiên phong nâng cao năng lực số, thúc đẩy chuyển đổi số tại địa phương và cơ quan, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, gắn kết với cải cách hành chính và phát triển kinh tế - xã hội; tạo điều kiện để người dân tiếp cận kỹ năng số, dịch vụ, nền tảng số, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, động lực của chuyển đổi số.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và người dân cần tích cực hưởng ứng phong trào. Doanh nghiệp công nghệ giữ vai trò tiên phong, phổ cập kỹ năng số thông qua các nền tảng, dịch vụ và giải pháp phù hợp; đồng hành cùng chính quyền và nhân dân trong công cuộc chuyển đổi số.
Cùng với đó, đẩy nhanh triển khai Đề án nâng cao kỹ năng số, tích hợp kiến thức số và trí tuệ nhân tạo vào giáo dục phổ thông. Đầu tư hạ tầng số, đặc biệt cho vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ thiết bị số cho người khó khăn. Phát huy tổ công nghệ số cộng đồng, cùng các mô hình gia đình số, nông thôn số, thành thị số để lan tỏa kỹ năng số rộng khắp.
Các bộ, ngành, địa phương cần chủ động cung cấp học liệu lên các nền tảng, đồng thời chủ động cắt giảm 80% chi phí đào tạo, tập huấn trên các nền tảng, đẩy mạnh hợp tác công - tư theo cơ chế thị trường trong phát triển, triển khai các nền tảng; khóa học trực tuyến mở đại chúng, lấy ứng dụng VNeID để định danh người học.
Ngành Ngân hàng với phong trào “Bình dân học vụ số”
Triển khai thực hiện kế hoạch số 01KH/BCĐTW ngày 21/3/2025 của Ban chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số về triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Kế hoạch số 01-KH/BCĐTW ngày 21/3/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số về việc triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” kèm theo Quyết định số 1938/QĐ-NHNN ngày 28/4/2025 của Thống đốc NHNN.
Theo đó, ngành Ngân hàng phát động phong trào để toàn thể cán bộ, viên chức, người lao động, từ các đơn vị quản lý đến các tổ chức tín dụng học tập, thực hành và vận dụng kiến thức về chuyển đổi số, về kỹ năng số nhằm phục vụ cho hoạt động tại đơn vị, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý; hoạt động kinh doanh và nhiệm vụ ngành trong việc phát triển ngân hàng số, kinh tế số và phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW.
NHNN xây dựng và phát động phong trào “Bình dân học vụ số” của Ngành trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ đề ra. Để phong trào trở thành động lực và lan tỏa hiệu ứng chung, thiết thực và phổ thông, cần có tính chủ động, sáng tạo trong cách làm, cách triển khai thực hiện phù hợp tại mỗi đơn vị trong Ngành. Trong đó ý nghĩa “Bình dân học vụ” cần được khai thác, quán triệt và vận dụng triệt để, sáng tạo, với nội dung đơn giản, dễ học, dễ tiếp thu và học mọi lúc, mọi nơi trên môi trường mạng… đồng thời, đảm bảo phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng loại hình tổ chức tín dụng theo yêu cầu và định hướng kế hoạch của NHNN.
Với việc lan tỏa và tinh thần học tập, tiếp thu kiến thức mới, kiến thức số, kỹ năng số trong toàn ngành Ngân hàng, phong trào sẽ tiếp tục là động lực thúc đẩy quá trình đổi mới và ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng, đồng thời là giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, yếu tố quan trọng trong phát triển ngân hàng số và ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý, điều hành; cung cấp dịch vụ cho nền kinh tế.
Việc xây dựng và phát động phong trào “Bình dân học vụ số” trong ngành Ngân hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc phổ cập tri thức nền tảng về chuyển đổi số và kỹ năng số cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, với mục tiêu giúp lực lượng này hiểu đúng, nắm vững kiến thức và sử dụng thành thạo các nền tảng, công cụ, dịch vụ số trong quá trình thực thi nhiệm vụ chuyên môn, góp phần nâng cao hiệu quả công việc và chất lượng phục vụ, đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Minh Hà