Hơn 70 năm trước, phong trào "bình dân học vụ" đã thắp sáng khát vọng tri thức của hàng triệu người dân Việt Nam, góp phần xóa mù chữ và nâng cao dân trí toàn dân trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Ngày nay, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số đang lan tỏa mạnh mẽ, một phong trào mới cần được thúc đẩy với quy mô không kém: Bình dân học vụ số, có thể hiểu là phổ cập giáo dục số cho cộng đồng.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Nếu tri thức chữ nghĩa từng là ranh giới giữa người biết và người không biết, thì trong thế kỷ 21, kỹ năng số trở thành ngưỡng cửa của sự hòa nhập hay bị loại trừ khỏi nền kinh tế số, xã hội số và chính phủ số. Vì vậy, đẩy mạnh giáo dục số cộng đồng không chỉ là một chiến lược giáo dục, mà còn là một chiến lược phát triển quốc gia.
Giáo dục số cộng đồng là một quá trình phổ cập kỹ năng số cơ bản và nâng cao cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt ở cấp cơ sở (thôn, ấp, xã, phường), thông qua việc triển khai các mô hình học tập ứng dụng công nghệ số, với sự tham gia của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và doanh nghiệp. Mục tiêu là nâng cao năng lực số, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, và đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình số hóa.
Khoảng cách số - một dạng bất bình đẳng mới
Theo số liệu của DataReportal, tính đến tháng 7/2025, Việt Nam có khoảng 79,8 triệu người dùng Internet, chiếm 78,8% dân số (DataReportal, 2025). Tuy nhiên, tỉ lệ này không phản ánh đầy đủ chất lượng truy cập, mức độ sử dụng hay kỹ năng số thực sự của người dân.
Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) cho thấy “khoảng cách số” (digital divide) dù nhỏ, song rất đáng lưu ý khi đánh giá khả năng truy cập Internet theo giới tính, khu vực sinh sống và thành phần xã hội. Hình 1 cho thấy rõ khoảng cách về điều kiện tiếp cận Internet tại nhà của người dân theo các đặc điểm nhân khẩu học khác nhau qua các cuộc khảo sát của PAPI từ năm 2016 đến năm 2024. Mặc dù phụ nữ và nam giới ngày càng sử dụng Internet nhiều hơn, nhưng khoảng cách 5 - 10% trong suốt thời gian qua cho thấy nam giới vẫn có lợi thế trong tiếp cận Internet hơn phụ nữ. Tương tự, mức độ bao phủ Internet tại nhà của nhóm đồng bào dân tộc thiểu số luôn thấp hơn 10 - 20% so với nhóm người dân tộc Kinh. Giữa khu vực nông thôn và thành thị, khoảng cách về bao phủ Internet tiếp tục được thu hẹp từ hơn 25% vào năm 2016 xuống còn 9% vào năm 2024.
Hình 1: Khoảng cách trong sử dụng Internet tại nhà theo giới tính, khu vực sinh sống, nhóm dân tộc và tình trạng hộ khẩu giai đoạn 2016 - 2024
Nguồn: CECODES, RTA & UNDP (2025)
Để theo dõi sự phát triển của dịch vụ công điện tử, từ năm 2022 đến nay, PAPI thực hiện đo lường trải nghiệm của người dân với Cổng Dịch vụ Quốc gia (DVCQG) và Cổng Dịch vụ Công cấp tỉnh (DVCCT). Kết quả khảo sát năm 2024 về trải nghiệm của người dân với Cổng DVCQG và Cổng DVCCT cho thấy vẫn còn tồn tại “khoảng cách số” giữa các nhóm người dùng với đặc điểm nhân khẩu học khác nhau, đòi hỏi Chính phủ các chính quyền địa phương cần tập trung thu hẹp. Cụ thể, khi phân tích theo dân tộc và khu vực nông thôn - thành thị, kết quả khảo sát năm 2024 của PAPI cho thấy có sự khác biệt nhỏ về về trải nghiệm sử dụng Cổng DVCCT giữa nhóm dân tộc thiểu số và nhóm người Kinh, song, khoảng cách này lại khá lớn giữa người dùng ở thành thị và nông thôn. Hình 2 cho thấy, tỉ lệ người dùng là đồng bào dân tộc thiểu số gặp khó khăn khi sử dụng Cổng DVCCT và một số người phải hoàn tất thủ tục trực tiếp tại bộ phận “một cửa” cao hơn một chút so với người dùng dân tộc Kinh. Hình 3 so sánh trải nghiệm người dùng ở nông thôn và thành thị với mức chênh lệch tỉ lệ người dùng Cổng DVCCT khoảng 8% nghiêng về khu vực thành thị. Trong số những người dùng Cổng DVCCT, có tới 62,6% số người dùng ở nông thôn phải hoàn tất thủ tục giấy tờ trực tiếp tại bộ phận “một cửa”, cao hơn 14% so với người dùng ở thành thị.
Hình 2: Trải nghiệm của người thực hiện thủ tục hành chính công trên Cổng DVCCT theo nhóm dân tộc năm 2024
Hình 3: Trải nghiệm của người thực hiện thủ tục hành chính công trên Cổng DVCCT theo khu vực thành thị - nông thôn năm 2024
Nguồn: CECODES, RTA & UNDP (2025)
Chính sự thiếu hụt kỹ năng số cơ bản đang làm trầm trọng hơn khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, nhóm xã hội, làm mở rộng thêm “khoảng cách số”, nếu không có biện pháp quyết liệt sẽ trở thành một hình thức bất bình đẳng mới trong xã hội.
Chính phủ hành động: Phổ cập kỹ năng số đến từng người dân
Nhận thức được thách thức trên, năm 2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" (Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/01/2022) với mục tiêu đến năm 2030, 90% người dân trong độ tuổi lao động biết đến các loại hình dịch vụ công trực tuyến và các dịch vụ số thiết yếu khác trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, giao thông, du lịch, ngân hàng; thành thạo cách thức sử dụng dịch vụ khi có nhu cầu. Ngày 21/03/2025, Ban Chỉ đạo Trung ương về Phát triển khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã ban hành Kế hoạch số 01-KH/BCĐTƯ triển khai sâu rộng Phong trào “Bình dân học vụ số” nhằm phổ cập tri thức cơ bản về chuyển đổi số, kỹ năng số cho người dân với tinh thần cách mạng, toàn dân, toàn diện, không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình chuyển đổi số; mọi người dân đều được trang bị kiến thức, kỹ năng số cần thiết để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày nhằm nắm bắt, tận dụng, khai thác, thụ hưởng những thành quả của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số mang lại
Triển khai thực hiện Đề án, Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đóng vai trò chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, tổ chức xã hội và doanh nghiệp công nghệ để triển khai các mô hình “Tổ công nghệ số cộng đồng” (theo Công văn số 793/BTTTT-THH ngày 05/3/2022 về việc hướng dẫn thí điểm triển khai Tổ công nghệ số cộng đồng); tổ chức các khoá học “Phổ cập kỹ năng số cộng đồng” (Bộ Thông tin và truyền thông, 2022); phổ cập kỹ năng số trong trường học (Công văn số 3240/BTTTT-CĐSQG ngày 08/8/2024 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc thúc đẩy hoạt động của Tổ công nghệ số cộng đồng tại địa phương…
Tính đến tháng 9/2024, cả nước đã có hơn 93.524 tổ công nghệ số cộng đồng ở tất cả các địa phương được thành lập, với sự tham gia của hàng trăm nghìn cán bộ, đoàn viên, giáo viên, sinh viên tình nguyện. Tại nhiều tỉnh như Bắc Ninh, Cần Thơ, Đồng Tháp, Ninh Bình, Hà Giang, Thanh Hoá, Quảng Ngãi..., mô hình này đã bước đầu chứng minh hiệu quả khi giúp người dân: Biết cài đặt và sử dụng ứng dụng VNeID, Mobile Banking, sổ sức khỏe điện tử; nắm được cách tra cứu thông tin chính sách, làm thủ tục hành chính trực tuyến; tăng cường nhận thức về bảo mật, chống lừa đảo số (Báo Nhân dân điện tử, 2024).
Cần thể chế mạnh và sự phối hợp đa ngành
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng giáo dục số cộng đồng ở Việt Nam vẫn còn đối mặt với một số rào cản lớn:
- Hạ tầng số chưa đồng đều: Ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, hạ tầng viễn thông, thiết bị số và kết nối Internet còn hạn chế; mạng yếu hoặc không ổn định làm giảm hiệu quả tiếp cận các lớp học, nền tảng học trực tuyến.
- Nguồn lực hạn chế: Nhiều địa phương còn thiếu thiết bị, thiếu giảng viên số cộng đồng, chưa có cơ chế tài chính ổn định cho hoạt động đào tạo phi chính quy.
- Chưa có chiến dịch truyền thông đại chúng bài bản, chưa tạo được phong trào toàn dân học số như “Bình dân học vụ” trước đây.
- Thiếu nhận thức và động lực từ một số bộ phận người dân: Một bộ phận người dân, nhất là những người lớn tuổi, người lao động phổ thông còn ngại học, sợ công nghệ, thiếu động lực tham gia lớp học số; họ không thấy rõ lợi ích thiết thực trong ngắn hạn từ việc học kỹ năng số.
Nhìn ra thế giới: Các mô hình phổ cập kỹ năng số cho cộng đồng
Việt Nam có thể tham khảo nhiều kinh nghiệm quốc tế về phổ cập kỹ năng số cho cộng đồng:
- Ấn Độ có chương trình "Digital India" với mục tiêu đào tạo kỹ năng số cơ bản cho 60 triệu người dân ở nông thôn, thông qua trung tâm học tập số tại các làng.
- Estonia, quốc gia đi đầu về chính phủ điện tử, đã tích hợp giáo dục số từ cấp tiểu học đến người cao tuổi, với nền tảng học tập toàn dân.
- Bangladesh phát triển các lớp học qua điện thoại di động (Mobile Learning) giúp người nghèo và người mù chữ tiếp cận thông tin.
Theo cẩm nang kỹ năng số (Digital Skill Toolkit) của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU, 2018), các quốc gia thành công trong phổ cập kỹ năng số đều có 3 điểm chung: (1) Chiến dịch truyền thông quốc gia mạnh mẽ; (2) Công cụ đào tạo đơn giản, dễ tiếp cận; (3) Có mạng lưới tình nguyện viên kỹ thuật số tại cộng đồng.
Kết luận
Hướng tới năm 2030, khi Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia số phát triển, giáo dục số cộng đồng sẽ đóng vai trò như một chiếc cầu nối để mọi người dân đều trở thành công dân số thực thụ - không chỉ biết sử dụng công nghệ, mà còn sáng tạo, làm chủ và sống có trách nhiệm trong không gian số.
Đẩy mạnh giáo dục số cộng đồng không đơn thuần là một nhiệm vụ giáo dục mà là nhiệm vụ chuyển đổi xã hội. Như phong trào xóa mù chữ đã tạo nền tảng cho một nền độc lập, thì phổ cập kỹ năng số hôm nay chính là nền móng cho một xã hội số công bằng, bao trùm và phát triển bền vững. Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để biến thách thức số thành lợi thế số - và giáo dục số cho cộng đồng là điểm khởi đầu quan trọng nhất.
Tài liệu tham khảo
1. Báo Nhân Dân điện tử. (2024). Công nghệ số cộng đồng và cuộc cách mạng chuyển đổi số từ cơ sở. https://nhandan.vn/special/chuyen-doi-so-tu-co-so/index.html?utm_source=chatgpt.com
2. Bộ Thông tin và Truyền thông. (2022). Phổ cập kỹ năng số cộng đồng. Tài liệu hướng dẫn Tổ công nghệ số cộng đồng.
3. CECODES, RTA, & UNDP. (2025). Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI): Đo lường từ kinh nghiệm thực tiễn của người dân năm 2024. Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES), Công ty Phân tích Thời gian thực (RTA) & Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP).
4. DataReportal. (2025). Digital 2025: Vietnam. https://datareportal.com/reports/digital-2025-vietnam
5. International Telecommunication Union (ITU). (2018). Digital skill toolkit. Switzerland: ITU.
Trung Anh