1
BÁO CÁO TÓM TẮT
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG NĂM 2021 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2022
Kính thưa Đ/c Lê Minh Khái, Bí thư TƯ Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ!
Kính thưa các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, lãnh đạo các Bộ, Ban, Ngành Trung ương và lãnh đạo các địa phương tham dự Hội nghị!
Kính thưa toàn thể Hội nghị!
PHẦN THỨ NHẤT
KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG NĂM 2021
Năm 2021 là năm có ý nghĩa quan trọng, mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới với nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, là năm đầu triển khai các Nghị quyết Đại hội thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và các kế hoạch 5 năm 2021 - 2025. Đặc biệt, năm 2021 là năm đánh dấu chặng đường 70 năm hình thành và phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam.
Trong bối cảnh đại dịch kéo dài sang năm thứ 2 liên tiếp với mức độ nguy hiểm và ảnh hưởng nặng nề hơn, để có thể góp phần đưa đất nước ta từng bước trở về trạng thái “bình thường mới”, tập trung phục hồi và phát triển kinh tế, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành ngân hàng đã thực hiện tốt các giải pháp điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; đồng thời, chủ động bám sát tình hình dịch bệnh, triển khai quyết liệt và mạnh mẽ hơn các giải pháp nhằm tập trung mọi nguồn lực tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, từng bước khôi phục và phát triển nền kinh tế.
Kết quả cụ thể như sau:
1. NHNN đã điều hành đồng bộ các công cụ CSTT để điều tiết thanh khoản phù hợp, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, sẵn sàng nguồn vốn hỗ trợ phục hồi kinh tế; lãi suất liên ngân hàng duy trì ở mức thấp, hỗ trợ các TCTD giảm chi phí vốn để có điều kiện tiếp tục cắt giảm lãi suất cho vay.
Bên cạnh đó, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành khác trong điều hành CSTT, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát để góp phần kiểm soát lạm phát. Lạm phát năm 2021 được kiểm soát thấp hơn mục tiêu 4% của Quốc hội và Chính phủ đặt ra (bình quân khoảng 2%, mức thấp nhất kể từ năm 2016; lạm phát cơ bản ở mức thấp), góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố niềm tin của người dân, thu hút FDI và là một trong những cơ sở để Việt Nam được cả 03 tổ chức xếp hạng tín nhiệm nâng mức triển vọng xếp hạng lên “Tích cực”.
2. NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm kiểm soát quy mô tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Vào những thời điểm dịch bệnh được kiểm soát, NHNN đã điều chỉnh linh hoạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với TCTD có khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh, những TCTD thực hiện tốt việc giảm lãi suất cho vay để kịp thời cung ứng vốn cho doanh nghiệp, người dân. Tín dụng tiếp tục tập trung vào lĩnh vực là động lực cho tăng trưởng kinh tế như lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Tích cực triển khai hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH.
Ngành ngân hàng tiếp tục triển khai hiệu quả, thiết thực các Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp tại các địa phương trên cả nước (với trên 300 buổi gặp gỡ, đối thoại) nhằm nhận diện khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, từ đó có giải pháp tháo gỡ phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho trên 61 nghìn doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng với số tiền vay mới đạt khoảng 900 nghìn tỷ đồng.
Bên cạnh đó, NHNN đã chỉ đạo các TCTD triển khai nhiều giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn, góp phần hạn chế “tín dụng đen”, như: đổi mới, cải cách mạnh mẽ thủ tục cấp tín dụng và dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, rút ngắn thời gian thẩm định cho vay; đa dạng các chương trình, sản phẩm tín dụng phù hợp để hỗ trợ tích cực hơn với các đối tượng, ngành kinh tế; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong bối cảnh dịch bệnh để hạn chế giao dịch trực tiếp, tạo điều kiện tăng cường tiếp cận tín dụng cho khách hàng; Rà soát để giảm hoặc cắt bỏ nhiều loại phí cho khách hàng, nhất là các loại phí cho vay.
Với hệ thống các chỉ đạo và giải pháp đồng bộ của NHNN, mặc dù chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 nhưng tín dụng toàn nền kinh tế tăng ngay từ đầu năm và cao hơn so cùng kỳ năm 2020; tổng dư nợ nền kinh tế đạt khoảng 10,38 triệu tỷ đồng, tăng 12,97% so với cuối năm 2020 (tổng vốn huy động của nền kinh tế đạt khoảng 11,23 triệu tỷ đồng, tăng 8,44%); 04/5 lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng tín dụng chung của nền kinh tế.
3. Sau khi cắt giảm mạnh lãi suất điều hành 3 lần vào năm 2020 và là một trong các NHTW giảm lãi suất mạnh nhất khu vực, NHNN tiếp tục giữ lãi suất điều hành ở mức thấp năm 2021 nhằm tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận vốn từ NHNN với chi phí thấp để có cơ sở giảm lãi suất cho vay. Đồng thời, chỉ đạo các TCTD tiết giảm tối đa các loại chi phí, điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chỉ tiêu lợi nhuận để tập trung giảm lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới; các NHTM có thị phần lớn cam kết tiếp tục giảm lãi suất cho vay trên tổng dư nợ hiện hữu với tổng số tiền khoảng 20,6 nghìn tỷ đồng; 04 NHTMNN tiếp tục cam kết dành 4.000 tỷ đồng giảm lãi suất cho vay, giảm 100% các loại phí dịch vụ ngân hàng trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội; NHCSXH thực hiện giảm 10% lãi suất cho vay đang áp dụng để hỗ trợ các đối tượng chính sách bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Mặt bằng lãi suất cho vay năm 2021 tiếp tục giảm thêm 0,81%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VND đối với một số ngành, lĩnh vực ở mức 4,3%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4,5%/năm); Tổng số tiền lãi TCTD đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 34,9 nghìn tỷ đồng.
4. Tiếp tục thực hiện quyết liệt, thiết thực hơn các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, đặc biệt là triển khai hiệu quả Nghị quyết 105/NQ-CP của Chính phủ trên tinh thần dành tối đa mọi nguồn lực hiện có trong khuôn khổ quy định của pháp luật, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn cho phục hồi nền kinh tế, chia sẻ khó khăn và đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh việc giảm lãi suất và mở rộng tín dụng, một số giải pháp đặc thù ngành ngân hàng triển khai trong thời gian qua đã đạt được kết quả cụ thể, tích cực như:
(i) Chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ (theo Thông tư 01, Thông tư 03 và Thông tư 14) giúp khách hàng được cơ cấu lại nợ phù hợp với dòng tiền mà không bị chuyển sang nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn, giảm áp lực cho khách hàng trong trả nợ vay ngân hàng và tạo điều kiện được tiếp tục vay mới khôi phục và ổn định sản xuất - kinh doanh. Đến nay, các TCTD đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ với giá trị nợ đã cơ cấu lũy kế từ khi có dịch đạt hơn 607 nghìn tỷ đồng; hiện có hơn 775 nghìn khách hàng đang được tiếp cận chính sách, với dư nợ gần 300 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 2 triệu khách hàng với dư nợ hơn 3,87 triệu tỷ đồng.
(ii) Chính sách miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán: NHNN đã chỉ đạo tiếp tục thực hiện chính sách giảm 50% phí giao dịch qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng; giảm 75-90% phí chuyển mạch qua ATM/POS, chuyển tiền nhanh 24/7; áp dụng chính sách miễn, giảm phí tài khoản, thẻ cho khách hàng. Nhiều TCTD triển khai thêm các gói sản phẩm dịch vụ “phí zero” hoặc kèm các điều kiện duy trì số dư bình quân để được miễn phí. Đến nay, tổng số tiền phí đã giảm cho khách hàng khoảng trên 2,5 nghìn tỷ đồng.
(iii) Chương trình cho vay trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất với lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm theo Nghị quyết 68/NQ-CP và gần nhất là Nghị quyết số 126/NQ-CP. Để hỗ trợ doanh nghiệp thuận lợi tiếp cận vốn, Nghị quyết số 126 đã bỏ điều kiện về nợ xấu tại TCTD tại thời điểm đề nghị vay vốn và không yêu cầu về có bản sao thông báo quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020. Đến nay, NHCSXH đã giải ngân trên 1.500 tỷ đồng cho khoảng 2 nghìn đơn vị sử dụng lao động để trả lương cho khoảng 430 nghìn lượt người lao động trên toàn quốc.
(iv) Các gói hỗ trợ đặc thù như tái cấp vốn cho các TCTD cho vay Tổng Công ty hàng không Việt Nam với tổng số tiền tối đa 4.000 tỷ đồng; tập trung nguồn vốn gần 5 nghìn tỷ đồng (trong thời gian tháng 6-7/2021) cho 13 tỉnh ĐBSCL nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu thu mua, tạm trữ thóc, gạo vụ Hè Thu ...
Trong quá trình triển khai chính sách, NHNN thường xuyên theo dõi, giám sát các TCTD thực hiện, đảm bảo thực thi đầy đủ, đúng đối tượng, tránh trục lợi chính sách, gây rủi ro cho hệ thống TCTD. Đồng thời, kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc phát sinh và thực tế diễn biến mới của dịch Covid-19 để tháo gỡ và điều chỉnh chính sách phù hợp. Có thể nói việc triển khai hiệu quả các chính sách này là những nỗ lực rất lớn của ngành ngân hàng trong điều kiện các TCTD cũng là đối tượng chịu ảnh hưởng của dịch Covid -19.
5. Thị trường ngoại tệ, tỷ giá tiếp tục giữ vững sự ổn định. NHNN sẵn sàng bán can thiệp ngoại tệ khi tâm lý thị trường diễn biến bất lợi; mua ngoại tệ khi nguồn cung ngoại tệ dồi dào, đảm bảo thanh khoản thị trường thông suốt ngay cả khi thị trường quốc tế biến động mạnh, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ; dự trữ ngoại hối nhà nước được củng cố. Thị trường vàng trong nước tiếp tục tự điều tiết tốt, biến động của giá vàng không ảnh hưởng tới biến động của tỷ giá, thị trường ngoại hối cũng như nền kinh tế vĩ mô.
Với nhiều nỗ lực, cố gắng của Chính phủ và NHNN, tháng 4/2021, Bộ Tài chính Mỹ đã xác định không có đủ bằng chứng, dấu hiệu cho thấy Việt Nam thao túng tiền tệ và quyết định không có hành động trừng phạt thương mại với Việt Nam. Bộ Tài chính Mỹ đánh giá cao việc NHNN đã thực hiện các thỏa thuận một cách nghiêm túc và minh bạch, tiếp tục duy trì được sự ổn định của thị trường ngoại tệ trong bối cảnh kinh tế vĩ mô hết sức khó khăn thời gian qua; đồng thời, thể hiện sự hài lòng với những bước tiến mà Việt Nam đã đạt được. Đây là kết quả có ý nghĩa rất tích cực, được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao, không chỉ giúp Việt Nam tránh được thiệt hại về kinh tế mà còn góp phần tiếp tục xây dựng niềm tin và môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài.
6. Năm 2021, NHNN tiếp tục giám sát chặt chẽ các TCTD trong việc triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt; rà soát, điều chỉnh phương án phù hợp với thực tiễn hoạt động, khắc phục các tồn tại, yếu kém; kịp thời cảnh báo, chấn chỉnh, xử lý các khó khăn, vướng mắc của các TCTD trong quá trình triển khai thực hiện phương án. Tập trung hoàn thiện các phương án xử lý các TCTD yếu kém, TCTD bị kiểm soát đặc biệt. Đồng thời, tiếp tục tăng cường giám sát chặt chẽ hoạt động của hệ thống QTDND để củng cố, chấn chỉnh, nhận diện kịp thời những rủi ro tiềm ẩn để áp dụng can thiệp sớm hoặc kiểm soát đặc biệt; tiếp tục hoàn thiện các quy định về tổ chức tài chính vi mô để tạo điều kiện cho các chương trình, dự án tài chính vi mô hoạt động hiệu quả.
Sau 4 năm thực hiện Đề án cơ cấu lại giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD đã đạt được những kết quả quan trọng; các mục tiêu tại Đề án về cơ bản đã đạt được (trừ một số mục tiêu bị ảnh hưởng do tác động của đại dịch Covid-19). Quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng; năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành tiếp tục được củng cố, nâng cao; từng bước hình thành đồng bộ các chuẩn mực, thiết chế an toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam; các NHTM Nhà nước tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các TCTD. Sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD tiếp tục được giữ vững, quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền được bảo đảm, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng. Vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý có hiệu quả. Hệ thống QTDND về cơ bản hoạt động tương đối ổn định, phát huy được vai trò trong việc huy động và cho vay vốn hỗ trợ các thành viên phát triển sản xuất - kinh doanh, nâng cao đời sống của người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, hạn chế tín dụng đen.
Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, NHNN cũng đã nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện trình cấp có thẩm quyền xem xét phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 để có cơ sở triển khai trong giai đoạn tiếp theo. Các ngân hàng mua bắt buộc và một số ngân hàng yếu kém đã và đang được xây dựng các phương án tái cơ cấu; một số ngân hàng đã được trình cấp có thẩm quyền xem xét phê duyệt chủ trương để tổ chức triển khai thực hiện.
7. Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng tín dụng, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tập trung nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới; tích cực áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu tại Nghị quyết 42 của Quốc hội; đồng thời, căn cứ thực trạng nợ xấu, xây dựng kế hoạch xử lý nợ xấu bảo đảm phù hợp với diễn biến dịch bệnh Covid-19. Mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng có xu hướng tăng nhưng vẫn được duy trì ở mức an toàn 1,92%; Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu khoảng 3,38%; Trong trường hợp thận trọng hơn, nếu tính cả dư nợ của khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi theo Thông tư 01 có nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỷ lệ này khoảng 7,31%.
NHNN cũng đã tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu. Thực tiễn cho thấy nhiều giải pháp tại Nghị quyết đã góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD. Trên cơ sở đó, NHNN đã đề xuất và được Chính phủ đồng ý trình Quốc hội xem xét gia hạn thời gian áp dụng Nghị quyết để tiếp tục thực hiện trong giai đoạn 2021-2025; đồng thời, trong thời gian này, NHNN sẽ nghiên cứu, đề xuất luật hoá các chính sách về xử lý nợ xấu tại Nghị quyết số 42 theo hướng tiếp tục kế thừa các quy định về xử lý nợ xấu còn phù hợp và sửa đổi, bổ sung một số quy định mà thực tiễn triển khai còn gặp khó khăn, vướng mắc.
8. NHNN tiếp tục tập trung triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật; đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. Tại Hội nghị trực tuyến toàn thể đặc biệt của APG năm 2021, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các nước thành viên APG và Báo cáo đánh giá đa phương của Việt Nam được thông qua với 4 nội dung được nâng hạng, đạt được kỳ vọng cao theo dự kiến của Việt Nam.
9. Chuyển đổi số đang là xu thế tất yếu trên bình diện toàn thế giới. Tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã xác định, chuyển đổi số là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch Covid-19. Đối với ngành ngân hàng, chuyển đổi số là hướng đi chiến lược nhằm cạnh tranh hiệu quả và phát triển bền vững trong kỷ nguyên 4.0. Do vậy, trong năm 2021, NHNN đã ban hành nhiều kế hoạch, chương trình hành động; hoàn thiện hành lang pháp lý để thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành ngân hàng. Đến nay, hệ sinh thái số và thanh toán số của hệ thống ngân hàng đã được thiết lập và kết nối với các dịch vụ ở các lĩnh vực khác trong nền kinh tế, mang lại nhiều dịch vụ tiện ích cho người dân. Năm 2021, Việt Nam được Công ty tư vấn và quản lý toàn cầu (McKinsey) đánh giá có mức độ ứng dụng ngân hàng số nhanh nhất trong khu vực.
NHNN cũng tích cực nghiên cứu, đề xuất triển khai các giải pháp thí điểm các mô hình, công nghệ mới, ứng dụng rộng rãi và mạnh mẽ vào các dịch vụ ngân hàng cốt lõi như thanh toán, nhận tiền gửi, cấp tín dụng,...
Thanh toán không dùng tiền mặt tăng trưởng mạnh; bên cạnh các phương thức thanh toán qua POS, ATM, chuyển khoản, Internet, mã QR, NHNN tiếp tục cho phép các ngân hàng mở tài khoản trực tuyến bằng công nghệ eKYC, triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile Money). Việc TTKDTM đối với dịch vụ công, thanh toán trực tuyến các thủ tục hành chính, thanh toán tiền điện, nước, viện phí,... cũng đạt kết quả tích cực. Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống TTKDTM tiếp tục được coi trọng và tăng cường; các rủi ro, nguy cơ mất an toàn cơ bản được kiểm soát và xử lý kịp thời.
10. Hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng tiếp tục được chú trọng hoàn thiện, vừa bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn vừa bám sát yêu cầu thực tiễn, đáp ứng kịp với xu thế và chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Theo đó, trong năm 2021, NHNN đã ban hành/trình cấp có thẩm quyền ban hành 01 Nghị định, 02 Quyết định và 20 Thông tư về CSTT, quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, các quy định liên quan đến phân loại, trích lập dự phòng rủi ro của các TCTD,...
11. Năm 2021, NHNN các chi nhánh tỉnh, thành phố đã tích cực triển khai công tác quản lý tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn, nhất là tập trung thực hiện thiết thực các giải pháp tín dụng hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động của các TCTD trên địa bàn đã bám sát các nội dung, yêu cầu tại Kế hoạch thanh tra của NHNN; thực hiện tốt việc theo dõi, giám sát các QTDND để cảnh báo, có phương án xử lý các vấn đề phát sinh, các Quỹ yếu kém đang được kiểm soát đặc biệt, đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, thông suốt, đáp ứng nhu cầu của người dân, khách hàng trong điều kiện giãn cách xã hội; Tiếp tục triển khai hiệu quả, thiết thực các Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, góp phần phục hồi hoạt động sản xuất - kinh doanh trên địa bàn; Kịp thời nắm bắt các vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách và những khó khăn vướng mắc trong thực tế triển khai, tập trung tháo gỡ, xử lý những vấn đề thuộc thẩm quyền; báo cáo Thống đốc, đề xuất, tham mưu chỉnh sửa cơ chế chính sách phù hợp với thực tiễn.
12. Trong năm 2021, các đơn vị Vụ, Cục, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp thuộc NHNN cũng đã triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm khác đã được nêu chi tiết tại bản đầy đủ của Báo cáo hoạt động ngân hàng năm 2021; phương hướng nhiệm vụ năm 2022 gửi đến Hội nghị.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NGÂN HÀNG NĂM 2022
I. Khó khăn, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng năm 2022.
Dịch bệnh diễn biến khó lường với sự xuất hiện của biến chủng Omicron khiến triển vọng kinh tế, lạm phát toàn cầu năm 2022 khó dự báo, đặt ra những khó khăn, thách thức mà ngành ngân hàng phải đối mặt, cụ thể là:
1. Nguy cơ rủi ro lạm phát do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong nước và ngoài nước, tác động của chính sách thương mại, chính sách thắt chặt tiền tệ, sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư của một số nước lớn, cùng với nhiều áp lực từ kinh tế trong nước kết hợp từ cả yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy như xu hướng tăng giá hàng hóa cơ bản (dầu, lương thực, thực phẩm); kinh tế dự kiến phục hồi trong năm 2022 khiến nhu cầu tiêu dùng, đầu tư gia tăng, gây sức ép lên giá cả. Điều này sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành CSTT, nhất là trong điều kiện CSTT đã được nới lỏng kéo dài trong mấy năm qua.
2. Dịch bệnh kéo dài trong suốt 2 năm và vẫn còn đang diễn biến phức tạp đã, đang và sẽ mang lại nhiều hệ lụy cho nền kinh tế. Những khó khăn như vòng quay vốn chậm, dòng tiền đứt dãy, doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, gia tăng rủi ro về thu hồi nợ... đến năm 2022 sẽ tác động mạnh hơn đến hoạt động ngân hàng do có độ trễ (nếu tính cả dư nợ của khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi theo Thông tư 01 có nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỷ lệ nợ xấu khoảng 7,31%). Điều này khó đảm bảo thực hiện được mục tiêu duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức an toàn, tác động tiêu cực, trực tiếp đến chất lượng tài sản và năng lực tài chính của các TCTD.
3. Việc mở rộng quy mô tín dụng và thái quá các chính sách hỗ trợ thông qua các chương trình, các gói tín dụng ưu đãi (cả về vốn và lãi suất) nếu không được nhận diện đầy đủ, kịp thời và sự hỗ trợ từ chính sách tài khóa thì không chỉ khó khăn cho điều hành CSTT trong việc cung ứng tiền từ NHNN mà còn tạo áp lực không nhỏ đến việc cân đối nguồn vốn cũng như chiến lược nâng cao năng lực tài chính của các TCTD, ảnh hưởng đến an toàn hệ thống trong trung-dài hạn cũng như làm méo mó thị trường lãi suất, thị trường tín dụng khi có nhiều gói tín dụng với mức lãi suất ưu đãi khác nhau cùng được triển khai thực hiện.
4. Việc cung ứng vốn cho nền kinh tế (đặc biệt vốn trung dài hạn) vẫn chủ yếu từ hệ thống ngân hàng, từ đó làm gia tăng rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản (huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn), kéo theo sức ép và rủi ro lên hệ thống TCTD. Ngoài ra, việc ban hành chính sách cơ cấu, giãn hoãn nợ đến hạn hiện nay là giải pháp tình thế, cần thiết trong ngắn hạn nhằm mục tiêu chính là hỗ trợ doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn trong dịch Covid-19; tuy nhiên, việc kéo dài thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ (thực chất đã biến các khoản cho vay ngắn hạn thành trung dài hạn cũng như tạm thời không ghi nhận mức độ rủi ro thực tế của khách hàng), cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống ngân hàng trong trung hạn.
5. Dịch bệnh diễn biến phức tạp, kéo dài làm cho năng lực tài chính của doanh nghiệp giảm sút, ảnh hưởng khả năng trả nợ đúng hạn, khách hàng khó đáp ứng điều kiện vay vốn khiến việc xem xét cho vay mới gặp khó khăn (nếu tạo điều kiện cho khách hàng sẽ dễ dẫn đến việc nới lỏng điều kiện vay vốn, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu và ngược lại). Bên cạnh đó, việc thẩm định, giải ngân tín dụng, thực hiện thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, thủ tục xử lý nợ và việc trả nợ ngân hàng của khách hàng cũng gặp khó khăn khi thực hiện phong tỏa, giãn cách xã hội, kể cả giãn cách cục bộ.
6. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng đã được chú trọng và hoàn thiện nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhiều quy định tại các văn bản quy phạm, kể cả Luật, có nhiều bất cập, chồng chéo, nhất là một hành lang pháp lý rõ ràng, đủ thẩm quyền trong việc cơ cấu lại các TCTD, xử lý các ngân hàng yếu kém, xử lý nợ xấu, hoạt động tín dụng tiêu dùng, các lĩnh vực chuyển đổi số của NHNN cũng như các Bộ, ngành có liên quan.
7. Nguồn lực cho các NHTMNN còn bất cập với vai trò và trách nhiệm thực hiện chính sách, cũng như việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ. Việc thực hiện nhiều chương trình tín dụng chính sách, gói hỗ trợ vừa qua và sắp tới, nhưng các NHTMNN chưa được NSNN bố trí đủ vốn hoặc chưa được bố trí nguồn cấp bù lãi suất phần nào gây khó khăn cho các NHTM. Mặt khác, vốn điều lệ các NHTMNN tăng không tương xứng với vai trò, vị thế đã hạn chế năng lực của các ngân hàng này trong việc mở rộng tín dụng, tham gia vào các dự án lớn, các công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia (điện, BOT giao thông, sân bay, cảng biển,..) hoặc mở rộng tín dụng đối với nhiều lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp nông thôn, xuất nhập khẩu, DNNVV; ảnh hưởng đến vai trò là lực lượng chủ lực, chủ đạo về quy mô, thị phần, khả năng điều tiết thị trường của các NHTMNN.
8. Chuyển đổi số đang đặt ra cho ngành ngân hàng nhiều thách thức, đòi hỏi sự đồng bộ và phù hợp của các quy định và hành lang pháp lý hiện hành để theo kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ và các ứng dụng chuyển đổi số. Các sản phẩm công nghệ mới, xu hướng có nhiều tổ chức tham gia vào hoạt động thanh toán, cung ứng sản phẩm thanh toán và trung gian thanh toán... cần có hành lang pháp lý đồng bộ để hạn chế rủi ro cho khách hàng nói riêng và hệ thống thanh toán nói chung. Bên cạnh đó là thách thức về sự đồng bộ và chuẩn hóa của cơ sở hạ tầng tạo thuận tiện cho việc kết nối, tích hợp tạo lập hệ sinh thái số; sự thay đổi về nhu cầu, hành vi khách hàng; việc đảm bảo an ninh an toàn và bảo mật dữ liệu khách hàng; việc bố trí nguồn lực phục vụ chuyển đổi số,...
II. Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022.
Bám sát chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và các đánh giá, nhận định về tình hình kinh tế, vĩ mô, tiền tệ, năm 2022, NHNN tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
1. Điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu năm 2022 bình quân khoảng 4%, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. Năm 2022, định hướng tín dụng tăng khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phù hợp nhằm góp phần ổn định thị trường ngoại tệ, thị trường vàng. Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để thực hiện tốt chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sau khi được Quốc hội phê chuẩn.
2. Điều hành linh hoạt các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô, tăng trưởng tín dụng hợp lý, hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 và thiên tai.
3. Tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng theo “Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong đó tập trung xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém; nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị, điều hành, tăng sự minh bạch và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
4. Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để kiểm soát và xử lý nợ xấu; ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng có liên quan. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Phấn đấu duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức an toàn (dưới 3%).
5. Tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động TTKDTM. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho chuyển đổi số ngành ngân hàng, đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin, ngân hàng số, thanh toán số. Tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và chuyển đổi số.
6. Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng phù hợp với thực tiễn nhằm tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi sau dịch Covid-19. Trong đó trọng tâm là xây dựng Luật phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật bảo hiểm tiền gửi Việt Nam; hoàn thiện việc đề xuất gia hạn Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD...
7. Thực hiện quyết liệt, hiệu quả CCHC, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, duy trì chỉ số chiều sâu và nâng cao độ phủ thông tin tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng công bằng, minh bạch. Tiếp tục đổi mới việc tổ chức cơ chế một cửa, số hóa, điện tử hóa trong giải quyết thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, góp phần xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số.
8. Triển khai công tác truyền thông theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đối với hoạt động thông tin của NHNN và các cam kết quốc tế. Đẩy mạnh truyền thông trước, trong và sau khi ban hành chính sách nhằm tạo sự đồng thuận của dư luận. Tiếp tục lựa chọn và xây dựng các chương trình truyền thông phổ biến kiến thức, hiểu biết của công chúng về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, góp phần nâng cao hiểu biết và nhận thức về tài chính của người dân. Tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động truyền thông tạo sự đồng bộ, thống nhất trong toàn Ngành.
9. Tiếp tục nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, công tác chỉ đạo điều hành; Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; Nâng cao ý thức trách nhiệm, văn hóa và đạo đức công vụ, công chức trong toàn ngành ngân hàng. Tăng cường tinh thần hợp tác, chia sẻ, văn hóa ứng xử, chất lượng dịch vụ để phục vụ tốt nhất doanh nghiệp, người dân trong quan hệ tiền tệ - tín dụng - ngân hàng.
Để tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ trọng tâm và đạt được các mục tiêu đã đề ra, đề nghị các đơn vị trong toàn Ngành bám sát Nghị quyết 01 và các Nghị quyết khác của Chính phủ, Chỉ thị 01 của Thống đốc NHNN, tập trung xây dựng kế hoạch với lộ trình, sản phẩm cụ thể; đồng thời tổ chức quán triệt đến từng cán bộ trong đơn vị để triển khai nghiêm túc, quyết liệt ngay từ đầu năm.
Trân trọng cảm ơn các Đồng chí!