BÁO CÁO TÓM TẮT
Hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm
và nhiệm vụ, giải pháp 6 tháng cuối năm 2023
1. Bối cảnh điều hành:
Tình hình thế giới trong 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục biến động nhanh, phức tạp và khó lường. Sản xuất, thương mại toàn cầu khó khăn; cạnh tranh chiến lược, xung đột địa chính trị giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; lạm phát ở mức cao; chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất kéo dài… Trong nước, tăng trưởng kinh tế thấp hơn kịch bản đề ra trong bối cảnh cầu thế giới giảm và những khó khăn nội tại của nền kinh tế: các thị trường xuất, nhập khẩu lớn, truyền thống bị thu hẹp; hậu quả của đại dịch covid19 tiếp tục kéo dài, sức chống chịu của doanh nghiệp bị bào mòn, lạm phát đối diện với nhiều yếu tố tiềm ẩn rủi ro... đã đặt ra nhiều thách thức và áp lực đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng.
2. Các giải pháp điều hành:
Bám sát các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu năm, NHNN đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN để quán triệt trong toàn Ngành tổ chức triển khai quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành, với mục tiêu xuyên suốt và nhất quán trong định hướng điều hành là góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, để ứng phó với những biến động của thế giới và trong nước, trong nửa đầu năm 2023, NHNN đã chủ động, kịp thời điều chỉnh chính sách, ban hành và triển khai đồng bộ, tối ưu các công cụ và giải pháp để kiểm soát lạm phát ở mức thấp, giảm mặt bằng lãi suất và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự phát triển an toàn của hệ thống các TCTD. Cụ thể như sau:
(1) Về điều hành lãi suất, thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã liên tục điều chỉnh giảm 04 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5-2,0%/năm trong bối cảnh mặt bằng lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao; tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp hơn, qua đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất kinh doanh và tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất thị trường. Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp như ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, làm việc trực tiếp với các TCTD yêu cầu triển khai các biện pháp để giảm lãi suất tiền gửi, tiết giảm chi phí, qua đó tạo dư địa để giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng để vận động sự thống nhất của các TCTD hội viên tiếp tục thực hiện giảm lãi suất cho vay. Với nỗ lực, quyết tâm của toàn Ngành, mặt bằng lãi suất thị trường đã có xu hướng giảm. Đến cuối tháng 6/2023, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các NHTM giảm khoảng 1,0%/năm so với cuối năm 2022. Với tác động của độ trễ chính sách, dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.
(2) Về tỷ giá và thị trường ngoại tệ, NHNN tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với các công cụ chính sách khác cũng như các biện pháp quản lý ngoại hối nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, củng cố vị thế VND, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, tiếp tục triển khai các giải pháp quản lý thị trường nhằm hạn chế các hành vi vi phạm trong hoạt động thanh toán, chuyển tiền ra nước ngoài; thực hiện quản lý các giao dịch vãng lai....Hoạt động trên thị trường ngoại tệ về cơ bản diễn ra thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được các TCTD đáp ứng.
(3) Về điều hành tín dụng, NHNN đã tiếp tục điều hành các giải pháp tín dụng phù hợp, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát. Ngay từ đầu năm, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng cả năm 2023 khoảng 14-15% (cao hơn tăng trưởng các năm trước), có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở đó, ngay đầu năm, NHNN đã phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD; đồng thời, chỉ đạo xuyên suốt của NHNN đối với các TCTD là hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên (như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Ngày 10/7/2023, NHNN đã điều chỉnh tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2023 cho các TCTD với mức giao toàn hệ thống khoảng 14%. Đây là nỗ lực của NHNN để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm thấp hơn so với kịch bản đề ra, các nguồn vốn trong nền kinh tế khó khăn. Đến ngày 30/6/2023, tín dụng nền kinh tế đạt trên 12,49 triệu tỷ đồng, tăng 4,73% so với cuối năm 2022. Trong đó, cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP cả nước.
Với tinh thần chia sẻ, đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp, xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, toàn ngành Ngân hàng đã nỗ lực, trách nhiệm, phối hợp các Bộ, ngành liên quan để triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận thuận lợi hơn với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, như:
(i) Khẩn trương rà soát và ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, theo hướng bổ sung một số quy định, như cho vay bằng phương tiện điện tử; cho khách hàng vay để trả nợ trước hạn khoản vay tại TCTD khác; cho khách hàng vay để trả khoản vay nước ngoài dưới hình thức mua bán hàng hóa trả chậm…
Hiện nay, NHNN đang khẩn trương rà soát thủ tục, quy trình cho vay và các loại phí, lệ phí TCTD đang áp dụng để xem xét, chỉ đạo các TCTD cắt giảm các loại phí, lệ phí không cần thiết.
(ii) Ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Đến cuối tháng 6/2023, đã có trên 18,8 nghìn lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ; tổng dư nợ (gốc, lãi) được cơ cấu giữ nguyên nhóm là gần 62,5 nghìn tỷ đồng.
(iii) Ban hành Thông tư số 03/2023/TT-NHNN góp phần gia tăng thanh khoản, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Bên cạnh việc kịp thời điều chỉnh chính sách, NHNN đã: tổ chức các Hội nghị chuyên đề tín dụng, các buổi làm việc nhằm nhận diện các khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp đối với một số ngành, lĩnh vực như doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, bất động sản, kinh doanh xăng dầu, thủy sản, lâm sản, các mặt hàng nông sản chủ lực theo chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; chỉ đạo các TCTD tiếp tục bố trí nguồn vốn, phát triển, đa dạng các sản phẩm tín dụng tiêu dùng, tạo điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân, góp phần hạn chế tín dụng đen; triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp.
Đối với lĩnh vực bất động sản, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tập trung nguồn vốn vào các dự án đủ điều kiện pháp lý, có khả năng tiêu thụ sản phẩm, có khả năng trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực của người dân, nhất là các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, nhà ở phù hợp với thu nhập của người dân và các loại hình bất động sản phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh, an sinh xã hội có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ và phát triển; đồng thời, kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản có tỷ lệ rủi ro cao, thực hiện tốt công tác định giá tài sản bảo đảm nhất là tại các địa bàn có hiện tượng sốt đất, thổi giá bất động sản trong thời gian qua. NHNN đã chỉ đạo các NHTM triển khai chương trình cho vay 120.000 tỷ đồng đối với chủ đầu tư, người mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ từ tháng 4/2023, thực hiện bằng nguồn lực của các NHTM với lãi suất cho vay thấp hơn từ 1,5%-2% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng trên thị trường.
Thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo các TCTD triển khai nghiêm túc, khẩn trương chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP. Cùng với việc chỉ đạo NHTM đẩy mạnh công tác truyền thông về chính sách và cách thức tiếp cận chính sách hỗ trợ lãi suất, NHNN tổ chức các đoàn công tác liên bộ, ngành tại các địa phương để khảo sát tình hình thực tế, giải đáp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Đến cuối tháng 5/2023, doanh số hỗ trợ lãi suất đạt hơn 123.000 tỷ đồng, dư nợ hỗ trợ lãi suất đạt hơn 54.000 tỷ đồng cho 2.000 khách hàng, số tiền đã hỗ trợ cho khách hàng lũy kế từ đầu chương trình đạt khoảng 500 tỷ đồng. Đến nay, kết quả hỗ trợ lãi suất chưa đạt như kỳ vọng do nhiều nguyên nhân và NHNN đã kịp thời tổng hợp, đánh giá và đề xuất kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh tín dụng thương mại, NHNN tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng Chính sách xã hội đẩy mạnh triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi đối với người nghèo, các đối tượng chính sách khác và 03 Chương trình mục tiêu quốc gia. Kết quả, đến ngày 30/6/2023, tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt 304.431 tỷ đồng, tăng 7,4% so với năm 2022; trong đó các chính sách cho vay theo Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội đạt trên 19 nghìn tỷ đồng; cho vay Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Nghị định 28/2022/NĐ-CP đạt trên 1.500 tỷ đồng; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới với dư nợ cho vay trên địa bàn các xã đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng.
(4) Công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu tiếp tục được chỉ đạo triển khai quyết liệt trong toàn Ngành. Trong đó, tập trung chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh xử lý nợ xấu; xây dựng phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 nhằm bảo đảm phù hợp với mục tiêu, định hướng nêu tại Đề án 689; đồng thời, NHNN phối hợp các bộ, ngành liên quan triển khai chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền về việc cơ cấu lại, xử lý các TCTD yếu kém, bảo đảm ổn định tình hình hoạt động và hỗ trợ các TCTD này từng bước phục hồi.
NHNN tiếp tục triển khai các giải pháp xử lý các ngân hàng được kiểm soát đặc biệt; chỉ đạo các bên liên quan thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định để hoàn thiện phương án chuyển giao bắt buộc, trình Chính phủ phê duyệt; tiến hành rà soát, hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định chủ trương chuyển giao bắt buộc NHTMCP Đông Á. Đến nay, các tổ chức tư vấn định giá đã phát hành chứng thư thẩm định giá đối với các ngân hàng mua bắt buộc và NHNN đã gửi Kiểm toán Nhà nước để thực hiện kiểm toán kết quả. Đồng thời, đang trong quá trình xây dựng phương án cơ cấu lại SCB để báo cáo cấp có thẩm quyền.
Công tác xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế nợ xấu phát sinh tiếp tục là nhiệm vụ trọng tâm trong nửa đầu năm 2023. Nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD có xu hướng tăng nhanh từ năm 2022 và tiếp tục tăng nhanh trong các tháng đầu năm 2023. Đến cuối tháng 4/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức 3,42%, tăng nhanh so mới mức 2,03% cuối năm 2022 và mức 1,49% vào cuối năm 2021.
NHNN đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ đánh giá thực trạng nợ xấu, xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.
(5) Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tiếp tục được tăng cường.
Công tác thanh tra (với trên 500 cuộc thanh tra, kiểm tra) đã tập trung nguồn lực vào các đối tượng, lĩnh vực có tiềm ẩn rủi ro cao, dễ phát sinh sai phạm, hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đại lý bảo hiểm và hoạt động tư vấn, giới thiệu, cung cấp thông tin trái phiếu doanh nghiệp đối với khách hàng.
Công tác giám sát không chỉ dừng ở việc giám sát tình hình tuân thủ, chấp hành các quy định về an toàn trong hoạt động mà còn chú trọng giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động của TCTD, nhất là tập trung vào các vấn đề như cấp tín dụng đối với khách hàng, nhóm khách hàng lớn, các lĩnh vực bất động sản, tiêu dùng, trái phiếu, nợ xấu cao, các khách hàng và nhóm khách hàng có dư nợ lớn mới phát sinh, các khoản lãi và phí phải thu lớn,...Bên cạnh đó, NHNN đã chỉ đạo NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của các QTDND trên địa bàn, đặc biệt là đối với các QTDND có tăng trưởng mạnh về quy mô, tăng trưởng tín dụng nóng.
(6) Tiếp tục tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và từng bước áp dụng chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt là thực hiện Nghị quyết 63/2022/QH15 của Quốc hội, NHNN đã khẩn trương xây dựng dự thảo Luật các TCTD (sửa đổi) với mục tiêu hoàn thiện cơ chế cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém; luật hóa các quy định phù hợp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đã được kiểm nghiệm từ thực tiễn qua quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD; tăng cường các biện pháp để hạn chế thao túng, chi phối trong hoạt động của TCTD… Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, dự thảo Luật đã được NHNN trình Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5. Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành/trình cấp có thẩm quyền ban hành 02 Nghị định, 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 08 Thông tư liên quan đến chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và công tác thanh tra, giám sát ngân hàng,...; tiếp tục nghiên cứu, rà soát Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Bảo hiểm tiền gửi để đề xuất sửa đổi trong năm 2024 (trong trường hợp cần thiết ban hành).
(7) Chuyển đổi số ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục được đẩy mạnh triển khai, mang lại nhiều tiện ích cho người dân. Các hạ tầng dùng chung như Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử, Hệ thống thông tin tín dụng quốc gia... thường xuyên đầu tư, nâng cấp, bổ sung tiện ích, dịch vụ theo hướng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế; hệ sinh thái số, thanh toán số đã được thiết lập kết nối giữa dịch vụ ngân hàng với nhiều dịch vụ khác, nhiều ngân hàng Việt Nam có tỷ lệ trên 90% giao dịch trên kênh số. NHNN đã tích cực xây dựng phương án, triển khai kết nối, khai thác thông tin dân cư tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, thẻ căn cước công dân gắn chip, tài khoản định danh điện tử (VNeID); nhiều TCTD đã và đang triển khai ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chip, thử nghiệm hệ thống chấm điểm tín dụng công dân trên nền tảng dữ liệu dân cư.
Thanh toán không dùng tiền mặt tăng trưởng mạnh với nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiện ích đã phục vụ đắc lực và đáp ứng được nhu cầu người dân và doanh nghiệp. Hoạt động thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng tiếp tục được mở rộng triển khai rộng rãi, đặc biệt trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục, an sinh xã hội, thu ngân sách nhà nước... Các hệ thống thanh toán quan trọng trong nền kinh tế được được vận hành ổn định, thông suốt và an toàn. Đồng thời, NHNN tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm công nghệ cao, bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và các hệ thống thông tin ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng.
(8) Quán triệt chủ trương của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các đơn vị Vụ, Cục, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp thuộc NHNN cũng đã triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm khác của Ngành.
3. Một số vướng mắc, tồn tại, khó khăn và thách thức đặt ra cho ngành Ngân hàng:
- Điều hành CSTT đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước khó khăn, lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao, nhiều NHTW tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, mặt bằng lãi suất thế giới tiếp tục gia tăng và duy trì cao, đồng USD tiếp tục tăng giá... Nhu cầu và sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp khi chi phí đầu vào cao, thị trường đầu ra và đơn hàng của doanh nghiệp suy giảm... kéo theo mức độ rủi ro của khách hàng gia tăng. Việc nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng có thể làm giảm chất lượng tín dụng, gia tăng nợ xấu phát sinh, tạo hệ lụy đe dọa an toàn tài chính quốc gia và an toàn hệ thống TCTD trong tương lai. Trong khi đó, thực trạng huy động vốn của các TCTD tăng chậm, các khoản huy động với lãi suất cao thời gian trước chưa đến hạn thanh toán là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lãi suất cho vay giảm chậm. Các nguồn vốn khác như cổ phiếu, trái phiếu, FDI tăng thấp, những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản chưa được giải quyết căn cơ khiến cho nguồn vốn phục vụ tăng trưởng tập trung vào tín dụng ngân hàng, tỷ lệ Tín dụng/GDP tăng cao tiềm ẩn rủi ro tài chính tiền tệ.
- Kết quả triển khai một số chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ chưa đạt như kỳ vọng do nhiều nguyên nhân:
+ Đối với Chương trình hỗ trợ lãi suất 2%: khách hàng không đáp ứng đối tượng được hỗ trợ lãi suất; tâm lý e ngại công tác thanh, kiểm tra, cân nhắc giữa lợi ích và chi phí bỏ ra khi nhận hỗ trợ lãi suất; khó đánh giá về khả năng “phục hồi” theo Nghị quyết 43/2022/QH15; một số khách hàng không thuộc đối tượng được hỗ trợ do lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ; nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp thay đổi do bối cảnh kinh tế - xã hội đã thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách.
+ Đối với Chương trình 120.000 tỷ đồng: nhiều địa phương còn đang trong quá trình tổng hợp danh mục dự án và nhu cầu của chủ đầu tư dự án; tình hình kinh tế, sản xuất kinh doanh khó khăn, thu nhập sụt giảm nên nhu cầu về mua nhà ở chưa phải là nhu cầu ưu tiên trong thời điểm hiện tại; chỉ một số ít chủ đầu tư có nhu cầu vay vốn.
- Việc xây dựng các chương trình, cơ chế, chính sách ưu đãi tín dụng đối với ngành, lĩnh vực (lâm sản, thủy sản, lúa gạo, y tế, du lịch, giáo dục và đào tạo,…) theo đề xuất của một số bộ, ngành, hiệp hội thời gian qua gặp nhiều khó khăn, thách thức. Do: Điều này sẽ dẫn tới sự bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các đối tượng khách hàng và có thể dẫn đến các vụ kiện tụng, vi phạm các điều ước và cam kết quốc tế về thương mại; tạo tâm lý ỷ lại của một bộ phận doanh nghiệp, người dân, làm giảm tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng cũng là doanh nghiệp có quyền tự chủ trong hoạt động và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh theo quy định tại Luật Các TCTD. Hiện nay các NHTM đã và đang triển khai một số chương trình tín dụng ưu đãi có nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2021-2025, ngân sách nhà nước không bố trí kế hoạch vốn đầu tư công để cấp bù lãi suất cho các NHTM đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng, như: Chương trình cho vay đóng mới, nâng cấp tàu cá theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP; Chương trình cho vay theo Quyết định 68/2013/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP...
- Việc xử lý các TCTD yếu kém hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn về hành lang pháp lý, cơ chế hỗ trợ đối với TCTD tham gia xử lý/nhận chuyển giao bắt buộc các TCTD yếu kém do các văn bản quy phạm pháp luật liên quan chưa thể bao quát được hết các tình huống phát sinh trong thực tế. Việc nhận diện chủ sở hữu “thực” của phần vốn góp và nhóm người có liên quan rất khó khăn do các đối tượng có thể lách các quy định của pháp luật. Việc xử lý thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước còn gặp nhiều vướng mắc về thủ tục và cần có sự phê duyệt của các cấp có thẩm quyền, các bộ, ngành là đơn vị chủ quản, cơ quan đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
- Nợ xấu đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các TCTD do tác động của dịch Covid-19 và diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội trong nước cũng như quốc tế, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
- Việc xử lý tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn, thiếu các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia xử lý tài sản bảo đảm và mua bán nợ xấu. Thị trường mua bán nợ chậm phát triển. Trong khi, nhiều khách hàng không có ý thức tự giác trả nợ, tìm nhiều phương cách để không bàn giao tài sản bảo đảm, làm kéo dài thời gian xử lý tài sản bảo đảm.
- Công tác thanh tra, giám sát đang đối diện với nhiều khó khăn, hạn chế như: Một số cán bộ thanh tra, giám sát còn hạn chế về kỹ năng, thiếu kinh nghiệm; Nhân sự của Thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố còn mỏng nên mỗi cán bộ thanh tra phải thực hiện khối lượng công việc rất lớn; Môi trường công tác thanh tra, giám sát ngân hàng phức tạp, đối diện với nhiều tác động và rủi ro về mặt pháp lý nhưng hiện còn thiếu cơ chế hỗ trợ và chưa có văn bản pháp lý bảo vệ cán bộ thanh tra trong quá trình thực thi công vụ; Hạ tầng công nghệ, cơ sở dữ liệu, phương tiện hỗ trợ thanh tra, giám sát còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
- Trong bối cảnh hoạt động thanh toán chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế, xuất hiện những vấn đề mới, phức tạp cần được đánh giá kỹ các tác động chính sách và sự phù hợp với thực tế cũng như liên quan đến nhiều lĩnh vực trong và ngoài ngành có nhiều quan điểm khác nhau, ảnh hưởng đến tiến độ của việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về lĩnh vực thanh toán.
- Sự phát triển ngày càng cao của công nghệ đang đặt ra nhiều nguy cơ, thách thức đối với công tác đảm bảo an ninh, an toàn thanh toán ngân hàng. Thủ đoạn của tội phạm công nghệ cao ngày càng đa dạng, tinh vi, thay đổi liên tục trong khi hệ thống công nghệ thông tin, đặc biệt là hệ thống an ninh bảo mật của ngành Ngân hàng ngày càng lớn, cấu trúc phức tạp nên rất dễ bị tổn thương nếu bất cứ thành phần nào của hệ thống có lỗ hổng bảo mật.
4. Nhiệm vụ, giải pháp trong 6 tháng cuối năm 2023
Trong 6 tháng cuối năm 2023, trên cơ sở bám sát các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm và các chủ trương, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
(1) Bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế để tiếp tục điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng chắc chắn, chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp hài hòa, hợp lý, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Trong đó, điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT; tiếp tục triển khai các giải pháp để giảm lãi suất cho vay, góp phần tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ phục hồi kinh tế.
(2) Điều hành tăng trưởng khối lượng và cơ cấu tín dụng hợp lý, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng trong cả năm với tốc độ hợp lý; hướng nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
Tiếp tục chỉ đạo các NHTM triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng từ nguồn vốn của các ngân hàng thương mại theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia. Tiếp tục rà soát, nghiên cứu các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp thuộc một số ngành, lĩnh vực theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Theo dõi, giám sát chặt chẽ việc triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN; kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc phát sinh (nếu có).
(3) Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 và công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42. Theo dõi, giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các TCTD xây dựng, triển khai quyết liệt, hiệu quả phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu; tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng, xử lý nợ xấu, trích lập dự phòng rủi ro theo quy định pháp luật; tích cực triển khai các biện pháp kiểm soát và hạn chế nợ xấu phát sinh nhằm bảo đảm tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức an toàn.
Hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại 03 ngân hàng mua bắt buộc và Ngân hàng Đông Á; hoàn thiện phương án xử lý SCB theo chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền.
Tiếp tục quản lý, chấn chỉnh, củng cố hoạt động hệ thống QTDND, đặc biệt là xử lý các QTDND yếu kém, các QTDND còn nhiều tồn tại, hạn chế trong hoạt động; tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của tổ chức tài chính vi mô.
(4) Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra; nâng cao hiệu quả công tác giám sát an toàn vĩ mô và vi mô. Trong đó, tập trung triển khai Kế hoạch thanh tra năm 2023; tiếp tục giám sát toàn diện hoạt động của các TCTD để kịp thời phát hiện, cảnh báo các rủi ro tiềm ẩn.
(5) Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là việc phân tích, xử lý các báo cáo giao dịch đáng ngờ. Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ sau đánh giá đa phương đối với cơ chế phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố của Việt Nam.
(6) Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, bảo đảm thị trường tiền tệ, ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, thông suốt, bền vững. Trong đó, tập trung hoàn thiện dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi) để báo cáo Chính phủ, Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 diễn ra vào tháng 10/2023; tiếp tục nghiên cứu, rà soát việc cần thiết sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Bảo hiểm tiền gửi.
(7) Tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin, ngân hàng số, thanh toán số. Tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và chuyển đổi số.
(8) Tiếp tục thực hiện quyết liệt công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hệ số tín nhiệm và niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào cơ chế, chính sách và hoạt động của ngành ngân hàng. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương điều hành trong mọi hoạt động về tiền tệ và ngân hàng.
(9) Chủ động, kịp thời thông tin, truyền thông về các cơ chế, chính sách, giải pháp điều hành của NHNN, các vấn đề dư luận quan tâm liên quan đến tiền tệ và hoạt động ngân hàng, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư vào chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ và điều hành của NHNN.
(10) Tiếp tục triển khai nghiêm túc, hiệu quả những nhiệm vụ, công tác khác của Ngành.