BÁO CÁO TÓM TẮT
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG NĂM 2022 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2023
1. Bối cảnh điều hành năm 2022
Năm 2022 là năm có ý nghĩa quan trọng, khẳng định tiến trình phục hồi tích cực và thích ứng an toàn, linh hoạt, hiệu quả với dịch bệnh Covid-19, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động rất nhanh, phức tạp, khó lường. Nhiều diễn biến chưa từng có tiền lệ, vượt khỏi khả năng dự báo của các tổ chức quốc tế và các nước, rất khác biệt so với thời điểm xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đầu năm 2022. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột Nga - Ukraine kéo dài; lạm phát thế giới tăng cao, xu hướng tăng lãi suất, thắt chặt CSTT, đồng USD quốc tế tăng giá mạnh... Ở trong nước, giá cả xăng dầu và một số hàng hóa biến động; áp lực lạm phát tăng cao và những diễn biến không thuận lợi của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản,... đã tác động mạnh đến hoạt động tiền tệ, ngân hàng.
2. Các giải pháp điều hành
Bám sát các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu năm, NHNN đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng với mục tiêu xuyên suốt và nhất quán trong định hướng điều hành là góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, để ứng phó với những biến động nhanh của tình hình thế giới và trong nước, NHNN đã chủ động bám sát diễn biến để kịp thời điều chỉnh chính sách, ban hành và triển khai thực hiện đồng bộ, tối ưu các công cụ và giải pháp, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát ở mức thấp, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự phát triển an toàn của hệ thống các TCTD. Cụ thể như sau:
(1) Về hạn mức tín dụng, từ đầu năm 2022, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng cả năm khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh nhưng không chủ quan với diễn biến bất lợi của lạm phát. Trong tình hình thanh khoản khó khăn, NHNN đã tập trung ưu tiên hỗ trợ hệ thống TCTD giải quyết vấn đề quản trị thanh khoản (thông qua mua bán giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị trường mở; duy trì ổn định tỉ lệ dự trữ bắt buộc; tái cấp vốn đối với TCTD...), giải tỏa tâm lý thị trường và các vấn đề còn tồn tại để đảm bảo an toàn hệ thống trước những rủi ro hiện hữu. Đến tháng 11/2022, trước tình hình tác động từ bên ngoài dịu bớt, thanh khoản của TCTD cải thiện hơn, NHNN đã quyết định điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng định hướng năm 2022 thêm khoảng 1,5-2% cho toàn hệ thống các TCTD với nguyên tắc, các TCTD có thanh khoản tốt hơn, lãi suất thấp hơn sẽ được tăng trưởng tín dụng cao hơn. NHNN cũng yêu cầu các TCTD cân đối vốn phù hợp để cấp tín dụng, tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên; đồng thời, kiểm soát rủi ro kỳ hạn để đảm bảo thanh khoản, an toàn hoạt động, đảm bảo khả năng chi trả cho doanh nghiệp và người dân, nhất là dịp Tết Nguyên đán. Đồng thời, NHNN sẵn sàng các giải pháp hỗ trợ thanh khoản kịp thời để các TCTD yên tâm hơn khi cấp tín dụng. Đến ngày 21/12/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 11,78 triệu tỷ đồng, tăng 12,87% so với cuối năm 2021.
(2) Về lãi suất, trong gần 9 tháng đầu năm, NHNN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng nhanh và áp lực lạm phát trong nước gia tăng nhằm tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp. Tuy nhiên, từ cuối tháng 9/2022, những tác động tiêu cực lên lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng chuyển biến rất nhanh; lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) liên tục điều chỉnh mạnh lãi suất điều hành và dự báo tiếp tục tăng trong thời gian tới, đồng USD lên giá mạnh, gia tăng áp lực lên mặt bằng lãi suất và tỷ giá trong nước, tạo sức ép lên lạm phát. Để tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, NHNN đã cân nhắc kỹ, buộc phải điều chỉnh tăng các mức lãi suất trong tháng 9 và tháng 10/2022. Đây là giải pháp kịp thời, phù hợp với xu hướng chung tăng lãi suất trên toàn thế giới để ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định tỷ giá, tạo dư địa thích ứng mới với các biến động trên thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô đảm bảo an toàn hệ thống. NHNN kiểm soát, chỉ đạo TCTD không chạy đua tăng lãi suất huy động, đồng thời vẫn phải nỗ lực tối đa tiết giảm chi phí hoạt động, thủ tục hành chính, các khoản chi không cần thiết để có dư địa phấn đấu giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn. Tất nhiên, trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng nhanh và áp lực lạm phát trong nước gia tăng, lãi suất tiền gửi và cho vay trong 11 tháng đã tăng so với cuối năm 2021 (bình quân tăng ương ứng là 1,19%/năm và 1,21%/năm).
(3) Về tỷ giá, trong năm 2022, tỷ giá và thị trường ngoại tệ chịu áp lực lớn trước những biến động mạnh trên thị trường quốc tế; cân đối cung - cầu ngoại tệ rất khó khăn. Trong bối cảnh đó, NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt; thực hiện các phương thức mua bán can thiệp thị trường và điều chỉnh tỷ giá mua/bán can thiệp để đáp ứng nhu cầu thanh khoản và bình ổn tâm lý thị trường. Để chủ động thích ứng trước diễn biến khó lường của thị trường, ngày 17/10/2022, NHNN quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá giao ngay USD/VND từ mức +3% lên +5%, qua đó, tạo dư địa cho tỷ giá diễn biến linh hoạt, hấp thu các cú sốc bên ngoài. Nhờ đó, thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định; đồng Việt Nam giảm giá so với USD khoảng 3,56% so với cuối năm 2021, thấp hơn so với các đồng tiền khác trên thế giới (như Nhân dân tệ giảm 9,86%, Won Hàn Quốc giảm 8,64%, Yên Nhật giảm 14,97%). Hoạt động trên thị trường ngoại tệ về cơ bản diễn ra thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được các TCTD đáp ứng, trong đó có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu xăng dầu, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
(4) Về tín dụng ngành kinh tế, NHNN chỉ đạo TCTD tập trung hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ (như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) và các động lực tăng trưởng theo đúng chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đồng thời, tăng thêm hạn mức tín dụng (gồm cả các giải pháp hỗ trợ vốn vay ngoại tệ) cho các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu; triển khai các giải pháp để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng đối với doanh nghiệp thu mua, tiêu thụ, kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực các tỉnh vùng ĐBSCL, vùng Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, ngành ngân hàng đã khẩn trương, quyết liệt triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất từ NSNN đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ. Sau khi các văn bản quy phạm pháp luật và giải đáp về chính sách được ban hành, NHNN đã chỉ đạo các NHTM chủ động rà soát để nắm bắt nhu cầu, thông báo, hướng dẫn khách hàng về hồ sơ, thủ tục; tích cực truyền thông, thông tin về chính sách bằng nhiều hình thức; thành lập đường dây nóng để tiếp nhận phản ánh. Đồng thời, NHNN đã tổ chức 04 Hội nghị toàn quốc; tổ chức các đoàn khảo sát liên ngành nhằm nắm bắt thực tế triển khai, kịp thời đôn đốc, trực tiếp xử lý, tháo gỡ khó khăn. Nhiều địa phương đã tổ chức triển khai chính sách rất bài bản, quyết liệt thông qua việc phối hợp với các Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, Ban Tuyên giáo tỉnh, thành phố...tổ chức các Hội nghị phổ biến chính sách đến tận quận, huyện, xã, phường; phối hợp với Đài Truyền hình địa phương hình thành các chuyên mục hỏi - đáp chính sách, giúp cho khách hàng hiểu rõ, đầy đủ cách thức tiếp cận chính sách. Đến cuối tháng 11, ước tính doanh số HTLS đạt gần 30 nghìn tỷ đồng đối với gần 1.400 khách hàng, dư nợ HTLS đạt gần 23 nghìn tỷ đồng, số tiền đã hỗ trợ cho khách hàng đạt hơn 78 tỷ đồng. Thực tế cho thấy, đây là một chính sách mà ngành ngân hàng triển khai đồng bộ với tinh thần quyết liệt và khẩn trương nhất từ trước đến nay; tuy nhiên, kết quả còn thấp, chưa được như kỳ vọng do nhiều nguyên nhân. Hiện nay, NHNN đã rà soát, đề xuất nội dung sửa đổi Nghị định 31 và đang lấy ý kiến các bộ, ngành trước khi báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.
NHNN cũng đã chỉ đạo các TCTD bố trí nguồn vốn, phát triển, đa dạng các sản phẩm tín dụng tiêu dùng, tạo điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân, góp phần hạn chế tín dụng đen. Một số sản phẩm tín dụng tiêu dùng tiêu biểu như chương trình tín dụng tiêu dùng 5.000 tỷ đồng của Agribank cho khách hàng có nhu cầu vay vốn chính đáng được giải ngân ngay trong ngày với số tiền cho vay tối đa 30 triệu đồng, không cần tài sản thế chấp; gói cho vay công nhân tại các khu công nghiệp của Công ty Tài chính TNHH HD Saison và Công ty Tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (mỗi công ty 10 nghìn tỷ đồng) với lãi suất ưu đãi bằng khoảng 50% lãi suất các công ty này đang cho vay trên thị trường...
Đối với lĩnh vực BĐS, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tập trung nguồn vốn vào các dự án, phương án vay vốn khả thi, đảm bảo tính pháp lý, có thanh khoản tốt, khách hàng có khả năng trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn; các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, các dự án nhà ở thương mại giá rẻ hiệu quả cao, tiêu thụ tốt. Đồng thời, yêu cầu các TCTD kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản có tỷ lệ rủi ro cao, đặc biệt là cấp tín dụng với mục đích đầu tư, có tính đầu cơ kinh doanh BĐS, thực hiện tốt công tác định giá tài sản bảo đảm nhất là tại các địa bàn có hiện tượng sốt đất, thổi giá BĐS trong thời gian qua.
Bên cạnh tín dụng thương mại, NHNN tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho NHCSXH đẩy mạnh triển khai 23 chương trình tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách và 03 Chương trình mục tiêu quốc gia. Kết quả, tổng dư nợ tín dụng chính sách ước đạt trên 284 nghìn tỷ đồng, với hơn 6,5 triệu khách hàng còn dư nợ; trong đó các chính sách cho vay theo Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội ước đạt trên 16 nghìn tỷ đồng; cho vay Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Nghị định 28/2022/NĐ-CP do NHNN trình ban hành đạt trên 350 tỷ đồng. Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới với dư nợ cho vay trên địa bàn các xã đạt hơn 1,5 triệu tỷ đồng.
(5) Công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu tiếp tục được triển khai quyết liệt; trong đó đặc biệt là đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 (Quyết định 689/QĐ-TTg). Trên cơ sở đó, NHNN đã yêu cầu các TCTD thực hiện rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng tài chính và hoạt động, đồng thời nhận định những khó khăn, thách thức, tồn tại, hạn chế cần xử lý, xây dựng các giải pháp cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu và lộ trình thực hiện đảm bảo phù hợp với Đề án 689.
Trong năm qua, NHNN cũng đã tập trung chỉ đạo xây dựng phương án xử lý các TCTD yếu kém, nhất là 03 ngân hàng mua bắt buộc để từng bước ổn định hoạt động các ngân hàng này. Đến nay, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết quyết định chủ trương chuyển giao bắt buộc của 02 ngân hàng và NHNN đang chỉ đạo các bên liên quan thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định tại Luật Các TCTD (đã sửa đổi, bổ sung) để trình Chính phủ phê duyệt phương án chuyển giao; đồng thời, đang tiếp tục hoàn thiện phương án đối với ngân hàng mua bắt buộc còn lại và DAB.
Công tác xử lý nợ xấu tiếp tục là nhiệm vụ trọng tâm trong năm qua, trong đó NHNN đã tăng cường giám sát tình hình hoạt động của các TCTD, nhất là tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, các khoản nợ được cơ cấu lại theo Thông tư 01, đảm bảo lộ trình trích lập dự phòng rủi ro theo quy định; chấn chỉnh các TCTD trong việc chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh. Nhờ đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD được kiểm soát ở mức an toàn (đến cuối tháng 10/2022 là 1,92%).
(6) Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tiếp tục được tăng cường. Công tác thanh tra (với trên 900 cuộc thanh tra, kiểm tra trong năm qua) đã tập trung nguồn lực vào các đối tượng, lĩnh vực có tiềm ẩn rủi ro cao, dễ phát sinh sai phạm; công tác giám sát không chỉ dừng ở việc giám sát tình hình tuân thủ, chấp hành các quy định về an toàn trong hoạt động mà còn chú trọng giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động của TCTD, nhất là tập trung vào các vấn đề như hoạt động kinh doanh, đại lý bảo hiểm; việc chấp hành quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn; cấp tín dụng đối với các tập đoàn kinh tế tư nhân, tập đoàn bất động sản lớn và người có liên quan; cấp tín dụng cho hoạt động kinh doanh chứng khoán, tham gia đấu giá quyền sử dụng đất, đầu tư và cung ứng dịch vụ liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp,... NHNN cũng đã chỉ đạo NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của các QTDND trên địa bàn, đặc biệt là đối với các QTDND có tăng trưởng mạnh về quy mô, tăng trưởng tín dụng nóng.
Riêng đối với NHTMCP Sài gòn (SCB), sau khi xảy ra vụ án của các công ty, tập đoàn và cá nhân có liên quan đến SCB, trước những diễn biến bất lợi, cấp bách, có nguy cơ lan truyền, trở thành vấn đề của hệ thống, NHNN đã kịp thời báo cáo, trình các cấp có thẩm quyền đặt ngay SCB vào kiểm soát đặc biệt để kiểm soát chặt chẽ, toàn diện hoạt động của SCB, ổn định hoạt động của ngân hàng này và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đến hệ thống các TCTD và nền kinh tế. Ngay sau khi đặt SCB vào kiểm soát đặc biệt, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm ổn định tâm lý người gửi tiền, xử lý tình trạng rút tiền hàng loạt, hỗ trợ thanh khoản, ổn định hoạt động của SCB và rà soát toàn diện thực trạng của ngân hàng này để khẩn trương xây dựng phương án cơ cấu, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời, thường xuyên theo dõi sát hoạt động của SCB để kịp thời hỗ trợ Ban kiểm soát đặc biệt và SCB tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh. Ðến nay, hoạt động của SCB đã dần ổn định và giảm bớt các tác động tiêu cực đến hệ thống các TCTD; các khó khăn, vướng mắc từng bước được tháo gỡ, xử lý SCB đang khẩn trương xác định giá trị doanh nghiệp để làm cơ sở xây dựng phương án cơ cấu lại.
(7) Chuyển đổi số ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục được triển khai với việc tập trung xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo thuận lợi cho ứng dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng. Ngành ngân hàng đã tiên phong, ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của CMCN 4.0 (như Điện toán đám mây, Trí tuệ nhân tạo, Dữ liệu lớn, Học máy,...), nhiều nghiệp vụ cơ bản đã được số hóa hoàn toàn, nhờ đó đã tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động và mang lại nhiều tiện ích cho người dân. NHNN cũng đã hoàn thành thử nghiệm kỹ thuật kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ công tác phòng chống rửa tiền, thông tin tín dụng và dịch vụ công NHNN.
Thanh toán không dùng tiền mặt tăng trưởng mạnh với nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiện ích (như chuyển tiền nhanh 24/7, thanh toán di động, dùng tài khoản viễn thông thanh toán -Mobile-Money, sử dụng mã QR,... đã phục vụ đắc lực và đáp ứng được nhu cầu người dân và doanh nghiệp. Hoạt động thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục, an sinh xã hội,... Các hệ thống thanh toán quan trọng trong nền kinh tế được được vận hành ổn định, thông suốt và an toàn. Đồng thời, NHNN tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm công nghệ cao, bảo đảm an ninh, an toàn các hệ thống thông tin”.
(8) Trong năm qua, NHNN tiếp tục tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và từng bước áp dụng chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt là NHNN đã hoàn thiện, trình Quốc hội thông qua Luật Phòng, chống rửa tiền (thay thế Luật phòng chống rửa tiền năm 2012) tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khóa XV và Nghị quyết kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của TCTD; ban hành/trình cấp có thẩm quyền ban hành 03 Nghị định, 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 18 Thông tư liên quan đến CSTT, tín dụng, ngoại hối và công tác thanh tra, giám sát ngân hàng,...; đồng thời, đã hoàn thiện trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật các TCTD sửa đổi, trong đó có luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo (dự kiến trình Quốc hội năm 2023); đã và đang từng bước nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi Luật NHNN, Luật BHTG để trình Quốc hội vào những năm tiếp theo.
(9) Năm 2022, hoạt động truyền thông ngành ngân hàng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức khi điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng chịu nhiều áp lực, nhiều nhạy cảm xã hội và khó khăn. Trong bối cảnh đó, NHNN đã triển khai hoạt động truyền thông theo hướng chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả; xác định truyền thông là kênh truyền dẫn chính sách, cung cấp thông tin đảm bảo tính chính xác, đầy đủ, minh bạch, đáp ứng nhu cầu thông tin người dân, doanh nghiệp quan tâm, nhất là các vấn đề thời sự như tăng trưởng tín dụng, tỷ giá, lãi suất, quản lý thị trường vàng,... Nhờ đó, công tác truyền thông đã góp phần tạo được sự đồng thuận xã hội về công tác điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng, ổn định tâm lý người gửi tiền.
(10) Trong năm 2022, các đơn vị Vụ, Cục, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp thuộc NHNN cũng đã triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm khác, được nêu chi tiết tại bản đầy đủ của Báo cáo hoạt động ngân hàng năm 2022; phương hướng nhiệm vụ năm 2023.
3. Đánh giá chung những kết quả đạt được
Trong bối cảnh đầy khó khăn, thách thức và chịu nhiều áp lực từ những diễn biến nhanh, khó lường của kinh tế thế giới, song điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng đã đạt được mục tiêu đặt ra, đó là góp phần kiểm soát lạm phát ở mức thấp, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tích cực nguồn vốn tín dụng cho quá trình phục hồi và tăng trưởng kinh tế hậu Covid-19. Ngành ngân hàng cũng đã nhận diện sâu sắc những khó khăn tích tụ qua nhiều năm từ nền kinh tế cũng như nội tại của hệ thống để tập trung nguồn lực xử lý từng bước; nhờ đó, hoạt động của các TCTD cơ bản an toàn, thanh khoản hệ thống được bảo đảm; năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành, các chuẩn mực, thiết chế an toàn của hệ thống TCTD từng bước được củng cố, tiệm cận thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Tiến trình chuyển đổi số của ngành ngân hàng tiếp tục đạt được những kết quả tích cực; công nghệ hiện đại, an toàn được ứng dụng mạnh mẽ trong hoạt động thanh toán và dịch vụ đã mang lại nhiều trải nghiệm tiện ích cho người dân, doanh nghiệp.
4. Tồn tại, hạn chế
- Hoạt động của các TCTD còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; quy mô, mức độ an toàn vốn, năng lực tài chính và cạnh tranh còn hạn chế so với các nước trong khu vực. Một số TCTD chạy theo lợi nhuận thiếu an toàn, tăng trưởng nóng, đầu tư, cho vay vào lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro; mức độ tập trung tín dụng đối với một số nhóm khách hàng lớn còn ở mức cao. Các chính sách, quy định quản lý, kiểm soát nội bộ, hoạt động nghiệp vụ của TCTD vẫn còn bất cập. Một số NHTM có biểu hiện chi phối, thâu tóm của một vài cổ đông lớn.
- Một số TCTD chưa tuân thủ nghiêm kỷ cương, kỷ luật trong công tác tín dụng, ngoại tệ, còn tình trạng chạy đua lãi suất huy động ở một vài ngân hàng, chậm hạ lãi suất cho vay khi đã có sự cam kết đồng thuận với chủ trương chung của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN; chưa chấp hành nghiêm túc hoặc vận dụng trái quy định, chỉ đạo của NHNN về trích lập dự phòng rủi ro; chưa chú trọng công tác an ninh mạng... Một số TCTD còn có tình trạng bắt buộc khách hàng mua bảo hiểm kèm khoản vay; tham gia các dịch vụ liên kết, môi giới, đại lý phát hành trái phiếu doanh nghiệp chưa minh bạch thông tin, gây phản cảm, giảm niềm tin của khách hàng...
- Công tác thanh tra, giám sát mặc dù đã đạt được một số kết quả nhưng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhằm đảm bảo an toàn hệ thống; một số vấn đề về cơ chế quản lý điều hành, cơ chế phối hợp trong ngành và các cơ quan chức năng khác chậm được rà soát, đổi mới; chất lượng nguồn nhân lực ở một số bộ phận đơn vị chưa được nâng cao; tổ chức bộ máy, nhân sự lãnh đạo công tác thanh tra, giám sát trong toàn hệ thống NHNN chậm được củng cố, kiện toàn; ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thanh tra, giám sát chậm được đổi mới và còn hạn chế.
- Hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động tiền tệ, ngân hàng vẫn còn thiếu đồng bộ, gặp nhiều vướng mắc do nhiều vấn đề khó, phức tạp mới nảy sinh và liên quan đến nhiều quy định pháp luật khác nhau, đặc biệt là trong công tác cơ cấu lại các TCTD, xử lý nợ xấu. Quy định pháp lý hiện hành về giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chứng từ điện tử, việc định danh và xác thực khách hàng điện tử, việc chia sẻ dữ liệu và bảo mật thông tin khách hàng,... chưa hoàn thiện, còn bất cập, cần phải rà soát, điều chỉnh đề phù hợp với bối cảnh mới.
5. Những khó khăn, thách thức đặt ra cho ngành ngân hàng năm 2023
- Áp lực lạm phát có xu hướng tăng ngày càng rõ nét hơn (lạm phát cơ bản tháng 1 so với cùng kỳ tăng từ mức 0,66% lên 4,81% vào tháng 11/2022); lạm phát tại thời điểm cuối năm 2022 dự kiến vượt 5%, gây thách thức đối với nhiệm vụ kiểm soát lạm phát ngay từ đầu năm 2023.
- Việc giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Quốc hội trong thời gian tới sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức do: (i) Các NHTW lớn trên thế giới tiếp tục tiến trình thắt chặt CSTT, điều chỉnh tăng lãi suất; (ii) Lạm phát trong và ngoài nước có xu hướng gia tăng do giá nguyên vật liệu thế giới tăng, chi phí vận chuyển tăng, nguồn cung gián đoạn và tác động trễ của CSTT, tài khóa nới lỏng từ năm 2020; (iii) Tín dụng tăng nhanh hơn huy động vốn nên các TCTD phải tăng lãi suất để ổn định và thu hút thêm nguồn vốn; (iv) Đồng USD tiếp tục tăng giá gây áp lực lên lãi suất VND.
- Trong điều kiện vốn đầu tư của nền kinh tế còn phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng, tỷ lệ tín dụng/GDP ở mức cao (trên 120%) thì hệ thống TCTD đang chịu áp lực cung ứng vốn tín dụng để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Khả năng huy động vốn trung, dài hạn của các TCTD vẫn còn thấp so với nhu cầu của nền kinh tế (nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm đến 80% trong khi dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm khoảng 48%), dẫn đến gia tăng rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản, kéo theo sức ép và rủi ro lên hệ thống các TCTD. Bên cạnh đó, những khó khăn của thị trường vốn, nhất là những tồn tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp vừa qua và hiện nay, tình trạng đầu tư công giải ngân chậm, càng tạo sức ép lên tín dụng ngân hàng khi tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động của cả hệ thống ngân hàng ở mức cao, khoảng trên 100% đối với VND. Nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới cảnh báo Việt Nam đang là một trong những quốc gia có tỷ lệ tín dụng/GDP cao nhất trên thế giới; Moody’s cũng cảnh báo Việt Nam về những bất ổn vĩ mô nếu để kéo dài tình trạng rủi ro về thanh khoản kỳ hạn vốn.
- Việc cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu còn gặp khó khăn do nguồn lực tài chính hỗ trợ công tác cơ cấu lại còn hạn chế. Việc cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém là vấn đề phức tạp, đòi hỏi áp dụng những giải pháp mạnh, chưa có tiền lệ. Vốn điều lệ của các NHTM Nhà nước tăng chậm hơn rất nhiều so với khối NHTM cổ phần, ảnh hưởng đến vai trò dẫn dắt thị trường, vai trò chủ lực, chủ đạo của toàn hệ thống, đặc biệt trong việc thực hiện các chính sách tín dụng và đầu tư các công trình dự án quốc gia lớn theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Nợ xấu vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các TCTD do hệ lụy của dịch Covid-19 và diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội trong nước cũng như quốc tế, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Nợ xấu hiện đang tập trung chủ yếu ở các TCTD yếu kém, tuy nhiên chưa thể xử lý nhanh được do nhiều khoản nợ liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh và khả năng trích lập dự phòng rủi ro của TCTD còn nhiều hạn chế.
6. Phương hướng, nhiệm vụ hoạt động ngân hàng năm 2023
Trên cơ sở đánh giá, phân tích về tình hình kinh tế, vĩ mô, tiền tệ và bám sát Nghị quyết 68/QH15 của Quốc hội, Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ, năm 2023, NHNN tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
(1) Theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước để điều hành thận trọng, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm góp phần kiểm soát lạm phát khoảng 4,5%, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với tình hình thị trường, diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ.
(2) Điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; chỉ đạo TCTD tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ; xem xét ưu tiên cấp tín dụng theo Danh mục phân loại dự án xanh, cho vay đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân, các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án nhà ở thương mại giá rẻ; tiếp tục kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; kiểm soát chất lượng tín dụng, không hạ chuẩn tín dụng. Tiếp tục triển khai với nỗ lực cao nhất các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là chính sách hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị định 31 của Chính phủ.
(3) Triển khai quyết liệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”. Trong đó, đẩy mạnh xử lý nợ xấu, tập trung cơ cấu lại, xử lý các TCTD yếu kém; đặc biệt là đẩy nhanh tiến độ xác định giá trị doanh nghiệp đối với các ngân hàng mua bắt buộc một cách khẩn trương nhất có thể, đảm bảo tuân thủ quy trình, quy định của pháp luật để sớm hoàn thiện phương án chuyển giao, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tập trung chiến lược tăng cường năng lực tài chính của các NHTM (vốn điều lệ, vốn tự có, các quỹ dự phòng đảm bảo thanh khoản), năng lực quản trị rủi ro,...
(4) Tăng cường công tác thanh tra và nâng cao hiệu quả công tác giám sát an toàn vĩ mô và vi mô. Trong đó, cần tập trung giám sát hoạt động cấp tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro như kinh doanh chứng khoán, bất động sản, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp; các TCTD có mức độ tập trung tín dụng vào một khách hàng/nhóm khách hàng lớn, doanh nghiệp có liên quan trong tập đoàn hệ sinh thái, doanh nghiệp sân sau; hoạt động kinh doanh vàng, mua bán ngoại tệ, thu đổi ngoại tệ, thanh toán và chuyển tiền ra nước ngoài; hoạt động kinh doanh bảo hiểm của TCTD... Mặt khác, khẩn trương củng cố cơ cấu tổ chức, kiện toàn bộ máy thanh tra, giám sát ngân hàng trong toàn hệ thống.
(5) Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, bảo đảm thị trường tiền tệ, ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, thông suốt, bền vững. Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi các Luật (Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các TCTD, Luật Bảo hiểm tiền gửi).
(6) Thực hiện có hiệu quả Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp tục triển khai các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số để ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu của CMCN 4.0 vào hoạt động ngân hàng, xây dựng hệ sinh thái số nhằm đem lại tiện ích, an toàn và sự trải nghiệm cho khách hàng.Tăng cường công tác giám sát các hệ thống thanh toán, hoạt động trung gian thanh toán; đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống công nghệ thông tin trong ngành ngân hàng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng. Phối hợp các Bộ, ngành triển khai thành công Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số.
(7) Chủ động, kịp thời thông tin, truyền thông về các cơ chế, chính sách, giải pháp điều hành của NHNN, các vấn đề dư luận quan tâm liên quan đến tiền tệ và hoạt động ngân hàng, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư vào chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ và điều hành của NHNN.
(8) Tiếp tục thực hiện quyết liệt công tác CCHC, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hệ số tín nhiệm và niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào cơ chế, chính sách và hoạt động của ngành ngân hàng. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương điều hành trong mọi hoạt động về tiền tệ và ngân hàng.