Định giá carbon có thể là một trong những công cụ mạnh mẽ cho các nhà hoạch định chính sách để khuyến khích giảm phát thải như một phần trong các chính sách tích hợp. Các chính sách định giá carbon đã bao phủ 24% tổng lượng khí thải toàn cầu và các thị trường carbon tiếp tục tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ với tổng số các công cụ quốc gia định giá carbon được triển khai đã tăng lên trên thế giới.
Giảm nhẹ biến đổi khí hậu vẫn là một vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết khi lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu tiếp tục gia tăng. Nhiệt độ toàn cầu không ngừng tăng qua các năm và năm 2023 ghi nhận mức độ nóng kỷ lục. Dữ liệu mới nhất cho thấy lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu đạt mức cao chưa từng có vào năm 2022, và nồng độ carbon dioxide (CO2) trong khí quyển đạt mức mức cao nhất từ trước đến nay. Bầu khí quyển, đại dương và sinh quyển của chúng ta đang cho thấy những thay đổi nhanh chóng và trên diện rộng; các vấn đề về khí hậu – liên quan đến các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt - bao gồm các đợt nắng nóng, các cơn bão ở Châu Âu, Mỹ và lũ lụt khắp nơi ở Châu Á - đã cho thấy rõ ràng mối nguy hiểm của biến đổi khí hậu trong năm 2023.
Nhiều nỗ lực toàn cầu nhằm giảm phát thải
Trong khi các cam kết chính trị tiếp tục được xây dựng, nhiều hành động hơn nhằm giảm lượng khí thải là cần thiết. Hơn 90% trong số 195 bên tham gia Thỏa thuận Paris đã thông qua các mục tiêu giảm phát thải định lượng, trên 95 quốc gia đã tuyên bố cam kết phát thải ròng bằng không (net-zero), bao gồm hơn 85% lượng CO2 liên quan đến lượng khí thải năng lượng trên toàn cầu. Nói chung, nếu được thực hiện, các mục tiêu phát thải ròng về mức 0 của các quốc gia có thể góp phần hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức khoảng 2°C so với mức tiền công nghiệp.
Vào năm 2025, các bên tham gia Thỏa thuận Paris sẽ đệ trình mức đóng góp tự quyết quốc gia (NDC) cho năm 2035 và chúng được kỳ vọng sẽ phản ánh tham vọng cao hơn. Tuy nhiên, nhìn chung, các công cụ chính sách giảm nhẹ tác động biến đổi khí hậu của các quốc gia không đủ để đáp ứng các NDC hiện hành. Các chính sách hiện có dự kiến sẽ dẫn đến lượng khí thải toàn cầu vào năm 2035 cao hơn 36% so với mức cần thiết để hạn chế sự nóng lên ở mức 2°C và cao hơn 55% so với mức cần thiết để hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5°C. Sự tập trung trước mắt và lâu dài vào việc thực hiện các chính sách mới là thiết yếu. Trong đó các công cụ định giá carbon có vai trò quan trọng để giải quyết vấn đề này vì chúng có thể khuyến khích thay đổi giữa các nền kinh tế - thúc đẩy quá trình trung hòa carbon và nâng cao hiệu quả - và có thể được điều chỉnh để phù hợp với mục tiêu ngày càng khắt khe hơn theo thời gian.
Triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm tạo ra thách thức môi trường cho cải cách kinh tế. Tăng trưởng khó khăn ở các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ tiếp tục vào năm 2024, trong khi tại các nền kinh tế thị trường mới nổi và đang phát triển (EMDE) có sự phân hóa. Các EMDE có nền tảng cơ bản vững chắc đặt mục tiêu tăng trưởng gần bằng mức trước đại dịch, nhưng những quốc gia khác phải đối mặt với triển vọng không chắc chắn hơn. Mặc dù triển vọng kinh tế khả quan hơn nhiều người dự đoán sau đại dịch COVID-19 và cuộc khủng hoảng năng lượng gần đây, năm 2024 dự kiến sẽ là năm thứ ba liên tiếp tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại sau đợt sụt giảm mạnh vào năm 2022. Lạm phát vẫn là một vấn đề đáng lo ngại trên toàn thế giới, đặc biệt đối với các nền kinh tế có thu nhập thấp và trung bình. Trong tương lai, các chính phủ sẽ phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn về nơi phân bổ nguồn lực. Điều nay bao gồm cân bằng các nỗ lực nhằm giải quyết những thách thức ngắn hạn làm nền tảng cho sự hài lòng của công chúng, như chi phí sinh hoạt và rủi ro suy thoái, cũng như giải quyết các vấn đề dài hạn then chốt như biến đổi khí hậu, nghèo đói và bất binh đẳng về thu nhập.
Trong năm 2023, các chính phủ đã tiến hành một loạt phương pháp tiếp cận chính sách về giảm nhẹ biến đổi khí hậu, tuy nhiên vẫn còn khoảng cách trong việc triển khai. Các nền kinh tế lớn, thu nhập cao hướng tới cải cách chính sách công nghiệp để thúc đẩy chuyển đổi xanh. Tại Hoa Kỳ, Đạo luật Giảm lạm phát đánh dấu năm đầu tiên triển khai với tuyên bố 110 tỷ USD đầu tư vào năng lượng sạch mới của khu vực tư nhân. Tương tự, EU đang phát triển Đạo luật Công nghiệp Net Zero để hỗ trợ việc cung cấp năng lượng với giá cả phải chăng, đáng tin cậy và bền vững. Tác động đầy đủ của những cách tiếp cận này sẽ mất thời gian để thành hiện thực.
Các chính phủ tiếp tục hỗ trợ quá trình giảm phát thải carbon của phương tiện giao thông và ngành điện thông qua việc loại bỏ dần động cơ đốt trong và hạn chế sản xuất điện từ nhiên liệu hóa thạch mới. Kể từ COP28, 24 quốc gia đã thiết lập tiêu chuẩn các phương tiện không phát thải và ngày càng có nhiều chính phủ áp dụng các chính sách để thực hiện những mục tiêu này. Năm 2023, EU đã thông qua luật yêu cầu chỉ bán các phương tiện không phát thải CO2 bắt đầu từ vào năm 2035. Việc bắt đầu nghĩa vụ báo cáo đối với Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU tìm cách tạo sân chơi bình đẳng về định giá carbon đối với hàng hóa tiếp xúc với thương mại có nhiều khí thải, cũng diễn ra vào năm 2023. Những sự phát triển này đi cùng với các xu hướng tích cực trong việc triển khai năng lượng tái tạo. Tổng điện năng toàn cầu tăng khoảng 1/5 trong năm 2023 và các nguồn năng lượng tái tạo bao gồm thủy điện là dự kiến sẽ vượt qua than đá để trở thành nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất thế giới điện vào đầu năm 2025. Bất chấp những bước phát triển này, rõ ràng vẫn còn một khoảng trống trong việc thực thi, điều này đòi hỏi những tiến triển liên tục trong danh mục chính sách khí hậu, bao gồm chính sách định giá carbon tổng thể.
Xu hướng định giá carbon tăng trên toàn cầu
Định giá carbon là một phần quan trọng trong tổ hợp chính sách cần thiết để vừa đáp ứng các mục tiêu của Thỏa thuận Paris vừa hỗ trợ tăng phát thải thấp. Các sáng kiến toàn cầu bao gồm: Thử thách định giá carbon toàn cầu (do Canada khởi xướng), Tổ chức quốc tế Đối tác hành động carbon, Liên hiệp các Bộ trưởng tài chính cho hành động khí hậu, Lực lượng đặc nhiệm do Tổ chức Thương mại Thế giới lãnh đạo về định giá carbon và Đối tác Triển khai thị trường của WB tiếp tục công việc hỗ trợ hợp tác quốc tế về phát triển và thực hiện định giá carbon trên toàn thế giới. Nhiều tiến triển lớn về tiềm năng giao dịch khí thải nội địa tại Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ cùng với các hệ thống hiện có trên khắp Châu Á, Bắc Mỹ và Châu Âu tiếp tục tạo ra mức doanh thu kỷ lục trong năm 2023 bất chấp điều kiện kinh tế khó khăn.
Các nỗ lực triển khai thị trường tín chỉ carbon quốc tế theo Điều 6 của Thoả thuận Paris vẫn tiếp tục dù COP28 không đạt được quyết định về các quy định này. Với sự chậm trễ này, có vẻ như là nhu cầu tự nguyện sẽ tiếp tục thúc đẩy hoạt động thị trường tín chỉ carbon. Tuy nhiên, những lo ngại về độ tin cậy của thị trường carbon tự nguyện và các câu hỏi liên quan đến vai trò của tín dụng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp hành động đã làm giảm động lực. Điều này đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cung, cầu và tính toàn vẹn của thị trường, đồng thời nhấn mạnh vai trò của các sáng kiến hiện đang được triển khai để khôi phục niềm tin và sự tự tin vào thị trường tín chỉ carbon.
Bằng cách kết hợp các chi phí xã hội (tức là thiệt hại do phát thải khí nhà kính [GHG] gây ra) vào việc ra quyết định kinh tế, định giá carbon là một chính sách can thiệp quan trọng có thể giúp giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và đem lại nhiều lợi ích rộng lớn hơn về môi trường, tài chính và xã hội. Việc định giá có thể được thực hiện thông qua một loạt các công cụ với nhiều thiết kế chính sách khác nhau để đáp ứng mục tiêu và bối cảnh trong nước. Các công cụ định giá carbon trực tiếp, đặc biệt là hệ thống giao dịch phát thải (ETS) và thuế carbon thực hiện thông qua việc áp một mức giá cho mỗi tấn carbon dioxide (tCO2e) tương ứng. Dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, trong đó nêu rõ những người chịu trách nhiệm gây ô nhiễm phải chịu các chi phí – trong định giá carbon trực tiếp, chi phí được phản ánh thông qua chuỗi cung ứng trong mối tương quan với giá của sản phẩm và dịch vụ.
Mặc dù tốc độ triển khai còn chậm nhưng định giá carbon tiếp tục được thực hiện ở nhiều vùng lãnh thổ mới. Số lượng công cụ định giá carbon đang được sử dụng đã tăng lên con số 75 trên toàn cầu, trong đó các công cụ thuế carbon nhiều hơn các ETS (39 loại thuế so với 36 ETS). Các công cụ mới được triển khai bao gồm cải cách của Australia về Cơ chế bảo vệ, và thuế carbon mới của Hungary; Slovenia khôi phục thuế carbon, trong khi Đài Loan, Trung Quốc và bang Guanajuato của Mexico áp dụng thuế carbon mới. Ngoài quy định bắt buộc trước đó, Nhật Bản đã tạo ra một cơ chế ETS tự nguyện mới - GX ETS - hoạt động từ tháng 10/2023 và dự kiến sẽ chuyển sang ETS bắt buộc vào năm 2026, trong khi Canada hợp nhất các loại thuế carbon ở các địa phương.
Định giá carbon cũng tăng lên ở các quốc gia thu nhập trung bình. Cụ thể, Indonesia triển khai ETS cho nhà máy sử dụng than đá vào đầu năm 2023, Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố tại COP28 về kế hoạch triển khai giai đoạn thử nghiệm kéo dài hai năm của ETS cho lĩnh vực năng lượng và công nghiệp vào tháng 10/2024. Ấn Độ cũng đã thông qua cơ sở pháp lý cho thị trường carbon (bao gồm ETS) vào năm 2022 và đã thiết lập khuôn khổ định chế cho hệ thống trong đó phác thảo vai trò và trách nhiệm của các cơ quan quản lý khác nhau. Quốc hội Brazil đang xem xét các quy định pháp luật để cho ra đời một ETS với giai đoạn thử nghiệm vào cuối thập kỷ này; tương tự Argentina cũng cân nhắc thành lập một ETS cho lĩnh vực năng lượng. Nhiều nỗ lực triển khai các ETS khác ở Mỹ Latinh cũng đang được tiến hành, bao gồm Chile và Colombia.
Mặc dù có một số trở ngại nhưng vẫn có động lực ổn định để thực hiện định giá carbon ở cấp địa phương. Một nửa các công cụ định giá carbon được thiết lập trong ba năm trở lại đây được thực hiện ở cấp địa phương. Mexico có 5 hệ thống địa phương vào năm 2022 và dự kiến tăng lên 8 vào cuối năm 2024, cho thấy sự quan tâm của các bang đối với thuế carbon như một nguồn thu nhập mới. Bang Sarawak của Malaysia đã thông qua luật đưa ra thuế carbon nhằm giảm lượng khí thải và thúc đẩy thu hồi và lưu trữ carbon. Định giá carbon địa phương ở Canada đã chứng kiến sự hợp nhất với hệ thống chính sách liên bang và hiện đang được áp dụng thêm ở bốn tỉnh. Tại Hoa Kỳ, một số bang đã đình chỉ hoặc rút khỏi việc định giá carbon, trong khi các bang khác đạt được tiến bộ trong việc ban hành mới hoặc mở rộng các công cụ định giá carbon hiện có.
MN (nguồn WB)