Theo dòng chảy của thời đại, hoạt động thanh toán xuyên biên giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, được thúc đẩy bởi những thành tựu trong lĩnh vực thanh toán toàn cầu và hội nhập quốc tế sâu rộng. Các dịch vụ thanh toán xuyên biên giới nhanh hơn, chi phí rẻ hơn, minh bạch và toàn diện hơn sẽ mang lại những lợi ích rộng rãi cho người dân và các nền kinh tế trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nhu cầu về việc thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới cũng đặt ra những rào cản, thách thức nhất định đối với các khu vực pháp lý để thích ứng với bối cảnh mới.
Gần đây, NHTW Anh (Bank of England - BoE) đã tổng hợp và đưa ra một số phân tích liên quan đến việc thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới trên toàn cầu. Thanh toán xuyên biên giới (cross-border payment) được hiểu là các giao dịch tài chính được thực hiện bởi người thanh toán (payer) và người nhận (recipient) ở các quốc gia khác nhau, bao gồm các hoạt động thanh toán bán lẻ, thanh toán bán buôn, chuyển tiền,… theo nhiều cách khác nhau. Trong đó, chuyển tiền ngân hàng, thanh toán thẻ tín dụng và các phương thức thanh toán thay thế (như ví điện tử, thanh toán di động…) là những hình thức phổ biến nhất của hoạt động chuyển tiền xuyên biên giới. Hiện, có 02 hình thức thanh toán xuyên biên giới phổ biến trên thế giới, đó là:
(i) Thanh toán xuyên biên giới bán buôn (wholesale cross-border payments): Là hoạt động thanh toán giữa các tổ chức tài chính để hỗ trợ các hoạt động của khách hàng của tổ chức tài chính hoặc các hoạt động xuyên biên giới của chính tổ chức đó (như cho vay, ngoại hối, giao dịch vốn và nợ, công cụ phái sinh, hàng hóa và chứng khoán). Chính phủ và các công ty phi tài chính quy mô lớn cũng sử dụng hình thức thanh toán này cho các giao dịch lớn bắt nguồn từ việc xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ hoặc giao dịch trên thị trường tài chính.
(ii) Thanh toán xuyên biên giới bán lẻ (retail cross-border payments): Là hình thức thanh toán giữa các cá nhân và doanh nghiệp, bao gồm các loại hình cá nhân với cá nhân, cá nhân với doanh nghiệp (C2B) và doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B), trong đó hoạt động kiều hối đóng vai trò chủ đạo.
Tại sao thanh toán xuyên biên giới lại ngày càng quan trọng?
Theo nghiên cứu của BoE, trong vài thập kỷ qua, sự dịch chuyển quốc tế của hàng hóa và dịch vụ, vốn và con người ngày càng tăng đã góp phần nâng cao tầm quan trọng kinh tế của hoạt động thanh toán xuyên biên giới. Giá trị các giao dịch thanh toán xuyên biên giới ước tính sẽ tăng từ 150 nghìn tỷ Đô la năm 2017 lên hơn 250 nghìn tỷ Đô la vào năm 2027, tương đương với mức tăng hơn 100 nghìn tỷ Đô la chỉ trong 10 năm.
Những năm gần đây, một số xu hướng phát triển thanh toán xuyên biên giới đã nổi lên như: Nhà sản xuất mở rộng chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới; quản lý tài sản xuyên biên giới và dòng vốn đầu tư toàn cầu; thương mại quốc tế và thương mại điện tử; người di cư gửi tiền qua kiều hối quốc tế,... Những xu hướng này đã kéo theo nhu cầu thanh toán xuyên biên giới cũng như nhu cầu của người dùng cuối được tiếp cận với các dịch vụ thanh toán xuyên biên giới một cách an toàn, hiệu quả tương tự như các dịch vụ thanh toán trong nước. Đáng chú ý, hoạt động kiều hối đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang phát triển có thu nhập thấp và trung bình, và trong một số trường hợp, đang trở thành nguồn tài chính phát triển hàng đầu của các quốc gia này. Cùng với đó, yếu tố tăng trưởng, mở rộng doanh thu cũng đang thúc đẩy mạnh mẽ lợi ích cạnh tranh trong thị trường này và sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh sáng tạo và những “người chơi mới” tham gia thị trường đã trở thành đòn bẩy đối với thanh toán xuyên biên giới trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
Những thách thức đặt ra đối với thanh toán xuyên biên giới là gì?
So với phương thức thanh toán trong nước, thanh toán xuyên biên giới thua xa về khía cạnh chi phí, tốc độ, khả năng tiếp cận và tính minh bạch. Bên cạnh đó, việc thực hiện thanh toán từ quốc gia này sang quốc gia khác thường khó khăn hơn so với việc thanh toán tại một quốc gia. Trong một số trường hợp, thanh toán xuyên biên giới có thể mất vài ngày và chi phí thậm chí có thể cao hơn gấp 10 lần so với thanh toán trong nước. Chính vì vậy, từ năm 2020, việc thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới đã được Nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới (G20) đặt làm ưu tiên hàng đầu, bao gồm xác định các rào cản/thách thức liên quan tới hoạt động thanh toán xuyên biên giới phát sinh từ một chuỗi xung đột trong các quy trình thanh toán hiện có và phát triển một tập hợp các khối liên kết (building blocks) để giải quyết vấn đề này. Một số thách thức chính đối với hoạt động thanh toán xuyên biên giới bao gồm:
Một là, các định dạng dữ liệu phân tán và rút ngắn: Thanh toán thực hiện bằng tin nhắn được gửi giữa các tổ chức tài chính để truy cập vào tài khoản của người gửi và người nhận. Các thông báo thanh toán này cần chứa đựng đầy đủ các thông tin để xác nhận danh tính hợp pháp của giao dịch thanh toán, và thông thường các tiêu chuẩn và định dạng dữ liệu có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực pháp lý, hệ thống và mạng tin nhắn. Điều này tạo ra rào cản trong việc thiết lập các quy trình tự động, quá trình xử lý bị chậm chễ và chi phí nhân sự và công nghệ gia tăng.
Hai là, quá trình xử lý phức tạp của việc kiểm tra tuân thủ: Việc thực hiện đồng bộ các phương thức để sàng lọc, phân loại các biện pháp trừng phạt và tội phạm tài chính để đảm bảo các bên không tiếp xúc với tài chính một cách bất hợp pháp là một thách thức đáng kể đối với các tổ chức tài chính. Sự phức tạp song hành với số lượng chuỗi trung gian phát triển ngày càng nhanh, khi đó dữ liệu gốc được cung cấp để đáp ứng các yêu cầu kiểm tra ban đầu có thể không chứa các yếu tố cần thiết để phục vụ kiểm tra, đối soát theo quy định của từng quốc gia/khu vực pháp lý, điều này khiến việc kiểm tra tuân thủ tốn kém hơn, cản trở quá trình tự động hóa của tổ chức tài chính và tạo ra sự chậm chễ hoặc từ chối thanh toán.
Ba là, thời gian hoạt động của hệ thống thanh toán bị hạn chế: Tại hầu hết các quốc gia, giờ hoạt động của hệ thống thanh toán thường được căn chỉnh phù hợp theo giờ làm việc của quốc gia đó, thậm chí một số hoạt động thanh toán quan trọng được cho phép kéo dài. Điều này dẫn đến chậm trễ trong việc bù trừ và thanh quyết toán các giao dịch thanh toán xuyên biên giới. Tại các khu vực pháp lý có chênh lệch múi giờ lớn, sự chậm trễ khiến các ngân hàng phải nắm giữ đủ lượng tiền mặt để trang trải các chi phí không xác định của tỷ giá hối đoái cuối cùng bị biến động theo thời gian, điều này làm tăng chi phí giao dịch thanh toán hay còn gọi là hiện tượng “thanh khoản bị mắc kẹt”.
Bốn là, nền tảng công nghệ lạc hậu: Trên thực tế, tại các quốc gia đang phát triển, công nghệ hỗ trợ các hệ thống thanh toán xuyên biên giới vẫn tồn tại trên các nền tảng cũ (legacy platforms) được xây dựng khi các quy trình thanh toán dựa trên giấy tờ lần đầu được chuyển sang các hệ thống điện tử. Các nền tảng này có một số hạn chế cơ bản, như: phụ thuộc vào xử lý theo lô, thiếu khả năng giám sát theo thời gian thực và xử lý dữ liệu kém hiệu quả. Điều này gây ra sự chậm trễ trong thanh toán dẫn đến tình trạng thanh khoản bị mắc kẹt. Đồng thời, những hạn chế này cũng ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán trong nước, thậm chí còn trở thành rào cản đối với khả năng tự động hóa thanh toán xuyên biên giới khi các cơ sở hạ tầng cũ cần sự tương tác, liên thông với nhau. Ngoài ra, yêu cầu giao tiếp với công nghệ cũ là rào cản đối với việc áp dụng các mô hình kinh doanh sáng tạo và công nghệ mới nổi gia nhập thị trường.
Năm là, chi phí vốn cao: Để có thể thực hiện thanh quyết toán nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, trong một số trường hợp, các ngân hàng cần phải tạm ứng vốn trước, thường là qua nhiều loại tiền tệ khác nhau hoặc thông qua việc tiếp cận thị trường ngoại tệ. Điều này sẽ tạo ra rủi ro cho các ngân hàng khi phải trích lập vùng đệm vốn để trang trải và do đó không thể sử dụng nguồn vốn để hỗ trợ các hoạt động ngân hàng khác. Mặt khác, sự không chắc chắn về thời điểm nhận được tiền đến cũng dẫn đến trạng thái huy động vốn quá mức làm tăng chi phí cho ngân hàng.
Sáu là, năng lực cạnh tranh yếu ớt: Một số tổ chức đang tìm cách cung ứng dịch vụ thanh toán xuyên biên giới cũng đối mặt với những khó khăn nhất định đối với việc gia nhập thị trường. Người dùng cuối gửi lệnh thanh toán cũng khó có thể đánh giá chính xác chi phí khởi tạo thanh toán, gây khó khăn cho việc đánh giá giá trị tiền tệ được cung ứng bởi các nhà cung cấp khác nhau. Rào cản này có thể làm tăng giá cho người dùng cuối và các tổ chức cũng như làm giảm đầu tư vào việc hiện đại hóa các quy trình thanh toán xuyên biên giới.
Vậy, các khu vực pháp lý cần làm gì để thúc đẩy hoạt động thanh toán xuyên biên giới?
Như đã đề cập, sangs kiến thúc đẩy hoạt động thanh toán xuyên biên giới được coi là ưu tiên hàng đầu của G20 vào năm 2020 đã tạo động lực và là chất xúc tác quan trọng để giải quyết vấn đề phức tạp, thách thức vốn đã tồn tại trong thời gian dài. Để hiện thực hóa mục tiêu này, G20 đã xây dựng lộ trình thực hiện gồm 03 giai đoạn, cụ thể như sau:
- Đánh giá (Giai đoạn 1): Ủy ban Ổn định Tài chính (FSB) phối hợp với các tổ chức quốc tế có liên quan và các cơ quan thiết lập tiêu chuẩn tiến hành rà soát, đánh giá các thoả thuận thanh toán xuyên biên giới hiện có và các rào cản/ thách thức đã được xác định.
- Phát triển cấu phần hỗn hợp (Giai đoạn 2): Ủy ban Cơ sở hạ tầng Thị trường và Thanh toán (CPMI) thuộc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) phát triển một bộ gồm 19 cấu phần hỗn hợp nhằm đẩy mạnh các thỏa thuận thanh toán xuyên biên giới toàn cầu hiện tại và giải quyết các vướng mắc, xung đột đã được xác định ở giai đoạn 1. Các cấu phần hỗn hợp này được chia thành 05 nhóm lĩnh vực, gồm: (i) Cam kết thực hiện tầm nhìn chung của khu vực công và tư nhân nhằm đẩy mạnh thanh toán xuyên biên giới; (ii) Phối hợp nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, quy định quản lý và giám sát; (iii) Thúc đẩy, nâng cấp cơ sở hạ tầng thanh toán hiện có và các thỏa thuận để hỗ trợ các yêu cầu của thị trường thanh toán xuyên biên giới; (iv) Nâng cao chất lượng thu thập, sàng lọc dữ liệu và xử lý trực tiếp bằng cách làm giàu dữ liệu và tuân thủ thông lệ thị trường; và (v) Khai thác vai trò, lợi ích tiềm năng của cơ sở hạ tầng và các thỏa thuận thanh toán mới.
- Lộ trình triển khai (Giai đoạn 3): FSB phối hợp CPMI, các tổ chức quốc tế có liên quan khác và các cơ quan thiết lập tiêu chuẩn xây dựng một lộ trình triển khai để cung cấp các cấu phần hỗn hợp được xác định trong giai đoạn 2. Lộ trình giai đoạn 3 đưa ra các hành động, biện pháp chính sách nhằm đẩy mạnh thanh toán xuyên biên giới và đề xuất các cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm thực hiện các hành động, với CPMI sở hữu hoặc đồng sở hữu 11 trong tổng số 19 cấu phần hỗn hợp. FSB thông qua Nhóm điều phối Thanh toán xuyên biên giới do Phó Thống đốc NHTW phụ trách lĩnh vực ổn định tài chính và Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Nam Phi đồng chủ trì, điều phối các hành động trong lộ trình cần thiết; đồng thời, giám sát và báo cáo về tiến độ theo lộ trình thực hiện đến G20 và công chúng.
Sáng kiến này phù hợp với những nỗ lực của G20 nhằm khắc phục những hạn chế tiềm ẩn trong các hoạt động thanh toán xuyên biên giới trên toàn cầu cũng như hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hậu đại dịch. Và “thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới là một nhiệm vụ đa chiều, đòi hỏi cần có sự hợp tác chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các khu vực pháp lý, giữa khu vực công và khu vực tư nhân. Đặc biệt, sự tham gia của khu vực tư nhân, chia sẻ hiểu biết sâu sắc và chuyên môn thực tế để định hình cơ chế, chính sách, cũng như mang lại sự thay đổi tích cực là “chìa khóa” để hiện thực hóa lộ trình trên thực tế G20 đã đề ra” NHTW Anh chốt lại./.
NMĐ (theo Bank of England)