1
a) Tên Đề án: Tiêu chí về phát triển thị trường tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Thực trạng và đề xuất;
Mã số: ĐTNH.001/20
b) Tổ chức chủ trì: Học viện Ngân hàng.
c) Chủ nhiệm và người tham gia chính:
- Chủ nhiệm: Đề tài: PGS.TS. Đỗ Thị Kim Hảo - Phó Giám đốc phụ trách, Học viện Ngân hàng.
- Thư ký: TS. Phạm Mạnh Hùng - Phó trưởng Phòng Nghiên cứu khoa học và Tư vấn, Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng.
- Thành viên tham gia:
d) Các chủ đề nghiên cứu chính:
- Cơ sở lý luận về tiêu chí phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;
- Tổng kết hệ thống tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng theo thông lệ quốc tế được áp dụng tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF);
- Khái quát thực trạng phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng ở Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới và phát triển, từ đó rút ra đánh giá về thành tựu đạt được cũng các điểm hạn chế và tồn tại;
- Xác định tầm nhìn và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2045; đề xuất tiêu chí khung về phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
đ) Thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc:
- Thời gian bắt đầu: Tháng 4/2020
- Thời gian kết thúc: Tháng 11/2020
e) Kinh phí thực hiện: 270 triệu đồng.
g) Kết quả thực hiện: Giỏi
h) Mô tả tóm tắt:
Nhằm mục tiêu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đề tài ĐTNH.001/20 đã triển khai các nội dung nghiên cứu sau:
Thứ nhất, đề tài đã làm rõ được cơ sở lý luận về tiêu chí phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hệ thống tiêu chí phát triển thị trường tiền tệ, ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện tại các văn kiện của Đảng, Nghị quyết của Chính phủ qua các thời kỳ, được sửa đổi và từng bước hoàn thiện gắn liền với tiến trình đổi mới và phát triển của đất nước: (i) Giai đoạn 1991 – 2000: phát triển thị trường tiền tệ, ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường; (ii) Giai đoạn 2001 – 2010: phát triển thị trường tiền tệ, ngân hàng theo hướng đồng bộ, hiện đại và đa dạng hóa, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường; (iii) Từ 2011 đến nay: phát triển thị trường tiền tệ, ngân hàng theo hướng đa dạng, cân bằng, hài hòa, cơ cấu lại và phát triển an toàn, hiệu quả, hội nhập với thế giới.
Thứ hai, đề tài đã tổng kết được hệ thống tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng theo thông lệ quốc tế được áp dụng tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF). Để đánh giá sự phát triển và tính ổn định của thị trường tiền tệ, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đưa ra các tiêu chí đánh giá về: (1) tổng quan thị trường; (2) mức độ mở rộng (đa dạng hóa); (3) mức độ cạnh tranh và hiệu quả; (4) tính ổn định và lành mạnh. Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới, bộ tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ tập trung vào 4 khía cạnh sau: (1) độ sâu tài chính; (2) tiếp cận tài chính; (3) tính hiệu quả; (4) tính ổn định. Trong khi đó, Diễn đàn Kinh tế thế giới sử dụng 9 chỉ tiêu để đánh giá mức độ phát triển hệ thống tài chính như một phần đóng góp vào năng lực cạnh tranh quốc gia, phản ánh các khía cạnh về quy mô (độ sâu), khả năng tiếp cận tài chính, tính hiệu quả, an toàn, lành mạnh của hệ thống. Các chỉ tiêu đo lường cụ thể ứng với từng tiêu chí lớn cũng đã được xác định, làm rõ trong đề tài nghiên cứu.
Thứ ba, đề tài đã khái quát được thực trạng phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng ở Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới và phát triển, từ đó rút ra đánh giá về thành tựu đạt được cũng các điểm hạn chế và tồn tại. Một số điểm hạn chế và thách thức nổi bật được chỉ ra gồm: (i) Khung khổ điều hành CSTT của NHNN về cơ bản đã định hình, song cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa; (ii) Cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam phát triển thiếu cân đối: hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung ứng vốn chủ yếu (nhất là vốn trung dài), trong khi thị trường chứng khoán và bảo hiểm phát triển chưa tương xứng; (iii) Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo đề án của Chính phủ đã xử lý được căn bản nợ xấu và sở hữu chéo của các TCTD, song do các vấn đề này đã hình thành và dồn tích qua nhiều năm, việc xử lý triệt để đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn và sự nỗ lực vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành; (iv) Năng lực tài chính và quản trị của một số TCTD còn yếu, khung khổ chính sách quản trị rủi ro hệ thống ngân hàng chưa cập nhật thông lệ tốt nhất, dẫn tới khả năng dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng trước những cú sốc bất lợi lớn của kinh tế thế giới; (v) Khuôn khổ chính sách giám sát và sự phối hợp của các kênh giám sát hệ thống tài chính - ngân hàng còn nhiều khiếm khuyết, thiếu đồng bộ và chưa bắt kịp sự phát triển của thị trường dẫn đến một số vụ việc rủi ro lớn cả về cán bộ và tiền vốn. Đặc biệt, thông qua kiểm định tác động của thị trường tiền tệ tới tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô dựa trên dữ liệu của 104 quốc gia trong giai đoạn 1981-2015 và kỹ thuật ước lượng GMM, đề tài đi tới kết luận rằng thị trường tiền tệ - ngân hàng phát triển trong giai đoạn đầu sẽ đóng góp tích cực cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định vĩ mô, song khi mức độ phát triển vượt qua một ngưỡng nhất định, tác động trên có xu hướng đảo chiều.
Thứ tư, từ việc phân tích, đánh giá triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam trong trung dài hạn kết hợp tham chiếu định hướng tổng quát của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại các phiên làm việc với Tiểu ban Kinh tế - Xã hội tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13, với Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 19/2/2019 và tại Diễn đàn Cải cách và Phát triển Việt Nam năm 2019 ngày 19/09/2019 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới tổ chức, đề tài đã xác định tầm nhìn và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam hướng tới trở thành nền kinh tế dẫn đầu nhóm nước có thu nhập trung bình cao với mức tăng trưởng bình quân trên 7%/năm, công nghiệp và dịch vụ đóng góp chủ chốt trong cơ cấu GDP và kinh tế tư nhân thể hiện được vai trò dẫn dắt, đóng góp tích cực vào sự thịnh vượng của nền kinh tế. Với tầm nhìn 2045, Việt Nam hướng tới mức thu nhập cao, trở thành quốc gia có nền công nghiệp phát triển hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gia nhập Top 20 quốc gia đứng đầu về năng lực cạnh tranh toàn cầu và Top 30 quốc gia đứng đầu về chỉ số phát triển con người, dựa trên nền tảng một xã hội hiện đại, sáng tạo, bình đẳng, công khai và dân chủ. Mục tiêu phát triển trên được nhóm nghiên cứu cụ thể hóa trên 9 tiêu chí cơ bản gồm: (i) Vị thế quốc gia; (ii) Phát triển kinh tế; (iii) Thể chế kinh tế; (iv) Khoa học công nghệ; (v) Quản lý nhà nước; (vi) Bền vững môi trường; (vii) Hội nhập quốc tế; (viii) Văn hóa, xã hội; (ix) Chăm sóc sức khỏe.
Thứ năm, đề tài đã đề xuất tiêu chí khung về phát triển thị trường tiền tệ - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, được cụ thể hóa thông qua các chỉ tiêu đo lường sự phát triển. Các tiêu chí khung được phân nhóm theo 9 chỉ tiêu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam và nghiên cứu tách bạch theo hai giai đoạn phát triển: Giai đoạn 1: từ nay đến năm 2030; Giai đoạn 2: tầm nhìn đến 2045. Từ đó, các khuyến nghị chính sách và giải pháp vận dụng ứng với từng tiêu chí khung phát triển thị trường tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 đã được đề xuất theo hướng phù hợp với điều kiện phát triển đất nước và đảm bảo tính khả thi cao./.